Các Mác có một tình bạn, tình đồng chí vĩ đại với Ph.Ăngghen (Friedrich Engels) và 2 người đã viết chung nhiều tác phẩm tiêu biểu. Trong đó có thể kể đến: “Gia đình thần thánh” (tháng 2/1845), phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm chủ quan của phái Hêghen trẻ; “Hệ tư tưởng Đức” (năm 1845-1846), tiếp tục phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen và phái Hêghen trẻ, đồng thời phê phán chủ nghĩa duy vật không nhất quán của Luivich Phoiơbach.
Trong cuốn “Sự bần cùng của triết học” (năm 1847), Các Mác đã chống lại triết học tiểu tư sản của Pruđông (Proudhon) và trình bày những cơ sở của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chính trị kinh tế học vô sản. Tác phẩm “Góp phần phê phán môn chính trị kinh tế học” (tháng 6/1859) của ông viết về tiền tệ và lưu thông tiền tệ; nhưng điều đặc biệt quan trọng là lần đầu tiên tác phẩm đã trình bày học thuyết Mácxít về giá trị, cơ sở của học thuyết kinh tế của Các Mác.
Đặc biệt, năm 1848 được sự ủy nhiệm của Đại hội II Liên đoàn những người cộng sản, Các Mác và Ăngghen viết “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”. Đây là một văn kiện mang tính chất cương lĩnh của chủ nghĩa Mác và đảng vô sản, soi sáng cho giai cấp công nhân toàn thế giới con đường đấu tranh để thoát khỏi chế độ nô lệ tư bản chủ nghĩa và đưa cách mạng vô sản đến thắng lợi.
Năm 1867, tập I Bộ “Tư bản” của Các Mác ra đời; tập II và tập III ông không kịp hoàn tất nênĂngghen đảm nhiệm việc xuất bản 2 tập này. Trong Bộ “Tư bản”, Các Mác đã vạch rõ quy luật giá trị thặng dư dưới hình thái giá trị thặng dư tuyệt đối và giá trị thặng dư tương đối; quy luật giá trị với tư cách là quy luật chung của nền sản xuất hàng hóa được phát triển trong quy luật cung và cầu, trong những quy luật của lưu thông tiền tệ…
Chính Các Mác là người tổ chức và là lãnh tụ của Quốc tế cộng sản I (thành lập ngày 28/9/1864)và ông dốc toàn bộ tâm sức để thống nhất phong trào công nhân các nước liên hợp lại. Năm 1876, sau khi Quốc tế cộng sản I giải tán, ông nêu lên ý kiến thành lập các đảng vô sản ở các nước là nhiệm vụ chính trị hàng đầu trong phong trào công nhân.
Như vậy, Các Mác đã để lại cho nhân loại những di sản tư tưởng có giá trị trường tồn. Trong đó, có 3 thành tựu như đánh giá của Ăngghen là 3 phát minh vĩ đại. Thứ nhất là tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người; thứ hai là tìm ra quy luật vận động riêng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện đại và quy luật giá trị thặng dư; thứ ba là tìm ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản.
Sự ra đời của chủ nghĩa Mác đã chấm dứt thời kỳ mò mẫm như trong đêm tối của hàng triệu nhân dân lao động sống dưới ách áp bức và bóc lột, tìm đường giải phóng cho mình. V.I.Lênin cho rằng, điểm cốt yếu của học thuyết Mác là nó đã soi sáng vai trò lịch sử thế giới của giai cấp công nhân là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa thay thế xã hội tư bản.
Lênin là người kế thừa sự nghiệp của Các Mác và Ăngghen, dựa trên các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác, đã phát triển chủ nghĩa Mác trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, thời đại cách mạng vô sản, và do đó gọi là chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác - Lênin là đỉnh cao của trí tuệ loài người bởi tính khoa học và tính cách mạng triệt để của nó. Cách mạng Tháng Mười Nga thành công và sự hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới là những thành quả rực rỡ của chủ nghĩa Mác -Lênin.
Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (ngày 3/2/1930), tạo ra bước ngoặt vĩ đại của lịch sử cách mạng Việt Nam. Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh luôn soi rọi, dẫn dắt cách mạng Việt Nam giành thắng lợi trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước.
Trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Tính khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị bền vững, đã và đang được những người cách mạng theo đuổi và thực hiện. Nó sẽ còn tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như trong thực tiễn phát triển của khoa học”.
Mai Văn Tưởng