Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 22/12/1944, tại khu rừng giữa tổng Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng Đạo, thuộc châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng (nay là xóm Nà Sang, xã Tam Kim, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng), Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập gồm 34 chiến sĩ. Ngay sau khi được thành lập, ngày 25/12/1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã mưu trí, táo bạo, bất ngờ đột nhập vào đồn Phai Khắt; ngày 26/12/1944, lại đột nhập đồn Nà Ngần, tiêu diệt hai tên đồn trưởng, bắt sống toàn bộ binh lính địch và thu tất cả vũ khí, quân trang, quân dụng. Chiến thắng Phai Khắt, Nà Ngần đã mở đầu cho truyền thống đánh chắc thắng, quyết chiến, quyết thắng của quân đội ta.
Tháng 3/1945, trước tình hình thế giới và trong nước chuyển biến mau lẹ, có lợi cho cách mạng Việt Nam, Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng và ra chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Lúc này Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được đổi tên thành Việt Nam Giải phóng quân. Việt Nam Giải phóng quân có nhiệm vụ đẩy mạnh tuyên truyền xung phong có vũ trang phá kho thóc của Nhật để cứu đói cho nhân dân; xây dựng các đội tự vệ vũ trang, du kích cứu quốc; phát động chiến tranh du kích, giải phóng từng vùng, mở rộng căn cứ địa cách mạng.
Từ tháng 4/1945, cao trào kháng Nhật cứu nước, phong trào vũ trang khởi nghĩa, khởi nghĩa từng phần do Việt Nam Giải phóng quân làm nòng cốt đã giành thắng lợi ở nhiều nơi. Trên cơ sở đánh giá thời cơ và tình hình cách mạng trong nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, lực lượng vũ trang cùng các tầng lớp nhân dân đồng loạt đứng dậy tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền. Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8/1945, cuộc Tổng khởi nghĩa của nhân dân ta đã giành thắng lợi hoàn toàn, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - Nhà nước của nhân dân, do nhân dân làm chủ.
Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, quân đội ta nhiều lần được đổi tên cho phù hợp với nhiệm vụ cách mạng: Năm 1945 đổi tên thành Vệ Quốc quân; năm 1946 đổi tên thành Quân đội quốc gia Việt Nam; năm 1950 đổi tên thành Quân đội nhân dân Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân đội đã góp phần rất quan trọng trong việc tham gia xây dựng, bảo vệ chính quyền nhân dân trong những năm đầu cách mạng.
Quân đội nhân dân Việt Nam làm nòng cốt tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, là một mốc son chói lọi trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc của quân đội ta. Chiến thắng này đã bảo vệ và phát triển các thành quả của Cách mạng Tháng Tám, giải phóng miền Bắc, đánh đổ ách thống trị của thực dân Pháp suốt gần một thế kỷ; tạo điều kiện xóa bỏ hoàn toàn giai cấp địa chủ, phong kiến.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, miền Bắc được giải phóng, là cơ sở và điều kiện vững chắc để quân và dân ta tiến lên giành thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Để đáp ứng nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, phương châm lúc này được Đảng ta đề ra là tích cực xây dựng Quân đội nhân dân hùng mạnh, tiến dần từng bước lên chính quy, hiện đại. Trong suốt thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ vô cùng khó khăn, gian khổ và ác liệt, quân đội ta đã cùng toàn dân xây dựng, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa; giữ gìn, phát triển lực lượng vũ trang cách mạng ở miền Nam.
Quân và dân ta đã đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất và lần thứ hai của đế quốc Mỹ. Đặc biệt, đại thắng mùa Xuân năm 1975 bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đã đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của Quân đội nhân dân Việt Nam, là đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam. Thắng lợi này đã kết thúc vẻ vang 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước, mở ra thời kỳ mới - thời kỳ cả nước độc lập thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội.
Bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Quân đội nhân dân Việt Nam đã có những đóng góp xứng đáng vào những thành tựu chung của đất nước. Từ năm 1977-1979, quân đội ta cùng toàn dân đánh thắng hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc. Đồng thời, giúp nhân dân Campuchia đã đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt - Iêngxari, hồi sinh, tái thiết đất nước Campuchia.
Trong những năm đất nước thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo, quân đội đã nắm chắc và dự báo đúng tình hình liên quan đến quốc phòng - an ninh; chủ động tham mưu, đề xuất với Đảng và Nhà nước hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách; ra nghị quyết về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Qua đó, không để đất nước bị động, bất ngờ về chiến lược; không để cho các thế lực thù địch lợi dụng, chống phá; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và quan hệ tốt với các nước láng giềng; bảo đảm sự ổn định chính trị - xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững.
Trải qua 79 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành, Quân đội nhân dân Việt Nam đã tạo nên những chiến công mãi mãi ghi vào lịch sử dân tộc như những biểu tượng sáng ngời về một quân đội từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, phục vụ. Phát huy truyền thống anh hùng, truyền thống cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta quyết tâm xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Mai Tưởng