Thông tin trong nước (số tháng 11 năm 2025)
- Chủ nhật - 26/10/2025 20:11
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Chính phủ tổ chức Hội nghị công bố các nghị định về phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền khi tổ chức chính quyền địa phương hai cấp. Ảnh: TL
1. Một số nội dung, nhiệm vụ trọng tâm trong hoạt động của tổ chức cơ sở đảng thời gian tới
Ngày 03/10/2025, Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành Kết luận số 197-KL/TW về thực hiện một số nội dung, nhiệm vụ trọng tâm trong hoạt động của tổ chức cơ sở đảng thời gian tới, trong đó chỉ đạo triển khai một số nội dung chủ yếu sau:
Khẩn trương tổ chức quán triệt và triển khai ngay nghị quyết, chương trình hành động của đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025-2030. Tổ chức nghiên cứu, quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm, đồng bộ các quy định mới của Bộ Chính trị về công tác cán bộ, nhất là trong đánh giá, sử dụng cán bộ, bảo đảm dân chủ, công tâm, khách quan, minh bạch, xuyên suốt, liên tục, gắn với tiêu chí, sản phẩm cụ thể theo đúng chủ trương “có vào, có ra”, “có lên, có xuống”. Thực hiện tốt các nội dung theo chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của tổ chức cơ sở đảng và quy chế làm việc của cấp ủy cơ sở; trọng tâm là việc tổ chức kiểm điểm, đánh giá, xếp loại tập thể, cá nhân trong hệ thống chính trị năm 2025.
Đảng ủy Chính phủ kịp thời kiện toàn các tổ chức cơ sở đảng đồng bộ với sắp xếp tổ chức bộ máy đối với một số cơ quan. Khẩn trương hoàn thành việc chuyển giao tổ chức đảng các doanh nghiệp nhà nước (tập đoàn kinh tế, tổng công ty, ngân hàng thương mại nhà nước…) về trực thuộc cấp ủy địa phương nơi đặt trụ sở (hoàn thành trong tháng 10/2025). Chỉ đạo xây dựng cơ chế, quy chế phối hợp giữa đảng ủy các bộ, ngành có liên quan, đảng uỷ các tập đoàn kinh tế, tổng công ty, ngân hàng thương mại nhà nước với cấp ủy địa phương, bảo đảm quản lý tốt đảng viên tại cơ sở, không ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp. Chỉ đạo hướng dẫn cụ thể việc tăng cường vai trò lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của tổ chức đảng, nhất là vai trò người đứng đầu cấp ủy trong các cơ sở giáo dục; không tổ chức hội đồng trường trong các cơ sở giáo dục công lập (trừ các trường công lập có thỏa thuận quốc tế) và thực hiện chủ trương bí thư cấp ủy kiêm người đứng đầu cơ sở giáo dục theo đúng quy định.
Văn phòng Trung ương Đảng chủ trì, phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương và các cơ quan liên quan khẩn trương hoàn thành cơ sở dữ liệu đảng viên; triển khai thực hiện Sổ tay đảng viên điện tử và các phần mềm, ứng dụng theo kế hoạch, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng.
Các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương tiếp tục thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 50-CT/TW, ngày 23/7/2025 của Ban Bí thư về đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng cho đảng viên, nêu cao tính tiên phong, gương mẫu của mỗi đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ chính trị và các chủ trương lớn của Đảng. Tiếp tục sắp xếp, kiện toàn tổ chức đảng phù hợp với sắp xếp tổ chức hành chính. Tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động của tổ chức cơ sở đảng bảo đảm thực hiện đúng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
2. Thực hiện pháp luật về phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền khi vận hành chính quyền địa phương 02 cấp
Ngày 19/9/2025, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành Kết luận số 192-KL/TW về thực hiện pháp luật về phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền khi vận hành chính quyền địa phương 2 cấp, trong đó có một số nội dung cơ bản sau:
Bộ Chính trị, Ban Bí thư cơ bản thống nhất với báo cáo của Đảng ủy Chính phủ, ghi nhận và biểu dương Đảng ủy Chính phủ, Đảng ủy Quốc hội, Đảng ủy Bộ Nội vụ, Đảng ủy Bộ Tư pháp và các bộ, cơ quan ngang bộ đã rất tích cực, chủ động, nỗ lực, cố gắng, phát huy tinh thần trách nhiệm trong tham mưu, đề xuất các nhiệm vụ về phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền; kịp thời tháo gỡ nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện. Đánh giá cao các tỉnh ủy, thành ủy và Đảng ủy xã, phường, đặc khu đã chủ động, sáng tạo, linh hoạt trong chỉ đạo, điều hành và quyết tâm trong tổ chức thực hiện các nhiệm vụ được phân cấp, phân quyền, góp phần từng bước nâng cao hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương 02 cấp.
Bộ Chính trị, Ban Bí thư giao Đảng ủy Quốc hội chỉ đạo ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để bảo đảm thống nhất, đồng bộ hệ thống pháp luật về phân cấp, phân quyền theo quy định của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương và những vấn đề khác liên quan đến thủ tục pháp lý; đề nghị Quốc hội thông qua giám sát, phát hiện những vấn đề bất cập của địa phương thì đề xuất sửa đổi các quy định cho phù hợp với thực tiễn.
Bộ Chính trị, Ban Bí thư giao Đảng ủy Chính phủ chỉ đạo các bộ, cơ quan ngang bộ thực hiện những nhiệm vụ sau: Rà soát, đánh giá kỹ lưỡng tính khả thi trong thực hiện nhiệm vụ phân quyền, phân cấp, phân định thẩm quyền trong quản lý, đề xuất phương án xử lý phù hợp. Tiếp tục rà soát hệ thống pháp luật chuyên ngành để bổ sung, hoàn thiện phân cấp, phân quyền theo đúng phương châm "địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm". Tiếp tục tăng cường hướng dẫn, hỗ trợ các địa phương thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ được phân cấp, phân quyền, nhất là việc nâng cao năng lực tổ chức thực hiện. Chỉ đạo các bộ: Nội vụ, Tư pháp, Tài chính, Giáo dục và Đào tạo, Khoa học và Công nghệ, Xây dựng, Nông nghiệp và Môi trường thực hiện các nhiệm vụ cụ thể để hoàn thiện và nâng cao hiệu quả phân cấp, phân quyền.
Các đồng chí bộ trưởng, bí thư tỉnh ủy, thành ủy, chủ tịch ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực tiếp kiểm tra, đánh giá các nhiệm vụ của bộ, của địa phương đang triển khai ở cấp xã, phường để có hướng dẫn, chỉ đạo kịp thời.
Các tỉnh ủy, thành ủy tiếp tục đánh giá khả năng thực hiện pháp luật về phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền tại địa phương để kịp thời điều chỉnh, hướng dẫn, sửa đổi hoặc đề xuất cấp có thẩm quyền sửa đổi, ban hành văn bản mới phù hợp với lộ trình, yêu cầu của Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương và phù hợp với tình hình thực tiễn. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện sát sao, đầy đủ, có hiệu quả các nhiệm vụ được phân cấp, phân quyền, khắc phục ngay những vướng mắc, bất cập, tăng cường toàn diện cho cấp xã, bảo đảm chính quyền địa phương 2 cấp vận hành thông suốt, hiệu quả.
3. Tình hình, kết quả hoạt động của bộ máy hệ thống chính trị và chính quyền địa phương 02 cấp và nhiệm vụ trong thời gian tới
Ngày 26/9/2025, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành Kết luận số 195-KL/TW về tình hình, kết quả hoạt động của bộ máy hệ thống chính trị và chính quyền địa phương 2 cấp, trong đó yêu cầu các cấp ủy một số nội dung chủ yếu sau:
Tổ chức thành công đại hội các đảng bộ trực thuộc Trung ương theo đúng kế hoạch. Chú trọng tuyên truyền trước, trong và sau đại hội. Nghiên cứu kỹ và tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm các kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị và bộ máy chính quyền địa phương 2 cấp; kịp thời tháo gỡ khó khăn, khắc phục những bất cập, mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định liên quan đến hoạt động của bộ máy mới, nhất là cấp cơ sở; tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm báo cáo, văn bản, hội họp không cần thiết; tăng cường kiểm tra, hướng dẫn, tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ; tiếp tục rà soát, tinh gọn bộ máy bên trong; tập trung khẩn trương sắp xếp, bố trí lại đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, bảo đảm tổ chức bộ máy hoạt động thông suốt, hiệu lực, hiệu quả theo phương châm "mới phải tốt hơn cũ, nói đi đôi với làm, đoàn kết thống nhất vì nhân dân phục vụ", không để gián đoạn hoạt động công vụ, không bỏ sót nhiệm vụ...
Khẩn trương triển khai các nghị quyết của Bộ Chính trị mới ban hành; tiếp tục đổi mới công tác nghiên cứu, học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng; đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền về chủ trương, đường lối, định hướng, chiến lược phát triển đất nước, cơ chế, chính sách, thành tựu về kinh tế - xã hội, hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương 2 cấp, tăng cường đấu tranh ngăn chặn phản bác thông tin sai trái, thù địch trên không gian mạng; nhân rộng các mô hình tốt, cách làm hay, hiệu quả, tạo sức lan tỏa, đồng thuận xã hội.
Giao Đảng ủy Chính phủ, Chính phủ, các cơ quan có liên quan tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Đảng ủy Quốc hội trong việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến xây dựng, hoàn thiện thể chế được giao tại các nghị quyết, kết luận, kế hoạch của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các nhiệm vụ nêu tại Kế hoạch số 56-KH/BCĐ, ngày 04/7/2025 của Ban Chỉ đạo Trung ương về tiếp tục hoàn thiện tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị và chuẩn bị Đại hội đảng bộ các cấp.
Đảng ủy Chính phủ tập trung triển khai thực hiện nghiêm Kết luận số 192-KL/TW, ngày 19/9/2025 của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, nhất là rà soát, đánh giá kỹ lưỡng tính khả thi trong thực hiện nhiệm vụ phân quyền, phân cấp, phân định thẩm quyền trong quản lý, đề xuất phương án xử lý kịp thời các vướng mắc, sửa đổi, bổ sung ban hành kịp thời các nghị định của Chính phủ có liên quan đến hoạt động của mô hình chính quyền địa phương 02 cấp, rà soát, hiệu chỉnh tổ chức bộ máy chuyên môn các sở, ngành và việc phân cấp, phân quyền cho cơ sở.
Chỉ đạo hướng dẫn hoàn thiện quy hoạch phát triển tỉnh, xã, phường, đặc khu hoàn thành trước ngày 30/10/2025. Yêu cầu các đồng chí bộ trưởng, bí thư tỉnh ủy, thành ủy, chủ tịch ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố chịu trách nhiệm quán xuyến chỉ đạo khắc phục những tồn tại, hạn chế đã được chỉ ra qua Báo cáo của Ban Tổ chức Trung ương và Ủy ban Kiểm tra Trung ương thuộc trách nhiệm của bộ, ngành, địa phương mình. Phân công rõ trách nhiệm, xác định rõ thời gian phải hoàn thành, các bộ, ngành, địa phương phải hoàn thành việc giải quyết hồ sơ thủ tục hành chính tồn đọng quá hạn trước ngày 15/10/2025; trực tiếp kiểm tra, đánh giá các nhiệm vụ của bộ, của địa phương đang triển khai ở cấp cơ sở để có hướng dẫn, chỉ đạo kịp thời.
Lãnh đạo, chỉ đạo các bộ, ngành khẩn trương sửa đổi, bổ sung, ban hành kịp thời, đầy đủ các quy trình công tác, cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính đối với các nhiệm vụ đã phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền cho cấp tỉnh, cấp xã bảo đảm dễ làm, dễ kiểm tra; tổ chức tập huấn, trang bị kiến thức, kỹ năng cho đội ngũ công chức cấp tỉnh, cấp xã để thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ được phân cấp, phân quyền.
Chỉ đạo Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Công an và các bộ, ngành, cơ quan liên quan phối hợp, hỗ trợ Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội kết nối cơ sở dữ liệu khối Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư (trước mắt hỗ trợ chuẩn hóa kết nối cơ sở dữ liệu đoàn viên, hội viên theo Kế hoạch số 02-KH/BCĐ, ngày 19/6/2025 của Ban Chỉ đạo Nghị quyết số 57), cơ sở dữ liệu dùng chung quốc gia và cơ sở dữ liệu mở của các ngành theo chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
Chỉ đạo Bộ Nội vụ khẩn trương trình Chính phủ ban hành Nghị định về tiêu chuẩn đơn vị hành chính, phân loại đơn vị hành chính và phân loại đô thị, hoàn thành trong tháng 10/2025; hoàn thiện Đề án tiền lương và phụ cấp, báo cáo cấp có thẩm quyền quyết định để áp dụng chung, thống nhất trong toàn hệ thống chính trị.
Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ khẩn trương hoàn thành đề xuất phương án sắp xếp đơn vị sự nghiệp, sắp xếp doanh nghiệp nhà nước và bộ máy bên trong các doanh nghiệp thuộc thẩm quyền quản lý của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và địa phương phù hợp tình hình mới; hoàn thành trong tháng 10/2025.
Làm rõ nguyên nhân, kiểm điểm trách nhiệm các tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện chưa nghiêm túc, kịp thời các kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và chậm thực hiện chế độ, chính sách đối với các trường hợp nghỉ công tác theo quy định, báo cáo Bộ Chính trị (qua Ban Tổ chức Trung ương) trước ngày 15/10/2025; hướng dẫn việc chi trả chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức, người lao động đã có quyết định nghỉ hưu, nghỉ thôi việc trước ngày 31/8/2025 chưa được thanh toán; thực hiện xong việc chi trả trước ngày 15/10/2025 đối với các trường hợp đã có quyết định nghỉ trước ngày 31/8/2025.
Các bộ, ngành, địa phương tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Kế hoạch số 02-KH/BCĐ, ngày 19/6/2025 của Ban Chỉ đạo Nghị quyết số 57 về chuyển đổi số trong hệ thống chính trị, khẩn trương khắc phục những tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc về thể chế, cơ sở vật chất, hạ tầng công nghệ và nhân lực đã được chỉ ra trong Báo cáo của Ủy ban Kiểm tra Trung ương.
Giao Thường trực Ban Chỉ đạo Nghị quyết số 57-NQ/TW làm việc cụ thể với các cơ quan: Đảng ủy các cơ quan Đảng Trung ương, Đảng ủy Chính phủ, Đảng ủy Quốc hội, Đảng ủy Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương để đôn đốc tháo gỡ khó khăn, vướng mắc bảo đảm đồng bộ, liên thông trong hệ thống chính trị.
Giao Đảng ủy Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương lãnh đạo, chỉ đạo khẩn trương báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư quyết định trong tuần đầu tháng 10/2025: Việc sắp xếp tổ chức bộ máy của toàn bộ các tổ chức chính trị - xã hội, hội quần chúng do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ ở cấp Trung ương và cấp tỉnh và lập tổ chức đảng tương ứng, phù hợp của từng tổ chức chính trị - xã hội và triển khai thực hiện. Rà soát, sắp xếp các cơ quan báo chí trực thuộc cơ quan Trung ương Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và các hội quần chúng do Đảng và Nhà nước giao nhiệm vụ. Hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam trong tình hình mới.
Yêu cầu các đồng chí bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, bí thư cấp ủy các địa phương căn cứ Báo cáo của Ban Tổ chức Trung ương và Báo cáo giám sát của Ủy ban Kiểm tra Trung ương trực tiếp quán xuyến, chỉ đạo khắc phục những tồn tại, hạn chế đã được chỉ ra thuộc trách nhiệm của bộ, ngành, địa phương; phân công rõ trách nhiệm và xác định rõ thời gian phải hoàn thành việc khắc phục. Rà soát, đánh giá thực trạng tình hình đội ngũ cán bộ trước và sau khi sắp xếp đơn vị hành chính, thực hiện mô hình chính quyền địa phương 02 cấp; xác định tình trạng thiếu, thừa, nguyên nhân, giải pháp khắc phục, làm rõ việc sắp xếp cán bộ huyện (cũ), xã (cũ), báo cáo Bộ Chính trị (qua Ban Tổ chức Trung ương trước ngày 15/10/2025).
Tăng cường tổ chức tập huấn, trang bị kiến thức, kỹ năng cho đội ngũ công chức tại địa phương để thực hiện hiệu quả nhiệm vụ được phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền. Tiếp tục quan tâm, bố trí đầy đủ trang thiết bị, phương tiện làm việc, nhất là điều kiện về đường truyền, tín hiệu kết nối; hoàn thiện hạ tầng số, nền tảng số, dữ liệu số bảo đảm kết nối thông suốt giữa các cấp chính quyền Trung ương đến tỉnh, xã; xây dựng và khai thác hiệu quả các cơ sở dữ liệu; tăng cường ứng dụng khoa học, công nghệ trong quản lý, giải quyết thủ tục hành chính; lồng ghép với chương trình chuyển đổi số, cải cách hành chính gắn phân cấp với cải cách thủ tục hành chính và số hóa, chuẩn hóa quy trình công việc. Báo cáo kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai các nhiệm vụ được phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền về các ban, bộ, ngành để sớm có giải pháp tháo gỡ bảo đảm cho hoạt động được thông suốt, hiệu quả. Lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan chuyên môn, tham mưu, giúp việc cấp ủy, chính quyền địa phương tích cực rà soát để báo cáo cơ quan có thẩm quyền ban hành giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thể chế, chính sách, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
Giao Ban Tổ chức Trung ương chủ trì, phối hợp cùng các cấp ủy, cơ quan, đơn vị liên quan giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư thường xuyên theo dõi, nắm chắc tình hình, tham gia ý kiến (khi cần thiết) trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ của các cấp ủy, cơ quan, đơn vị bảo đảm đúng tiến độ, chủ trương, yêu cầu của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chỉ đạo; điều chỉnh, bổ sung các nội dung, nhiệm vụ và tiến độ thực hiện phù hợp tình hình thực tiễn; sơ kết việc thực hiện Nghị quyết 18 và các kết luận của Bộ Chính trị về vấn đề này, báo cáo Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Hội nghị Trung ương 14 tháng 11/2025.
4. Đảng viên tiên phong trong học tập kỹ năng số
Phần I: Những chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước về chuyển đổi số
Chuyển đổi số, cùng với khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, được Đảng ta xác định là một trong những động lực quan trọng của phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Quá trình này không phải sự thay đổi đột ngột mà là kết quả của tích lũy, tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận, thể hiện qua một hệ thống văn kiện chỉ đạo mang tính chiến lược.
Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã đặt nền móng cho tư duy chiến lược về chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển từ tư duy ứng phó sang tư duy kiến tạo và dẫn dắt, yêu cầu phát triển mạnh mẽ kinh tế số, xã hội số, đổi mới mô hình quản trị dựa trên dữ liệu và công nghệ số, nhấn mạnh vai trò then chốt của cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Tiếp đó, ngày 26/5/2023, Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 34-CT/TW về tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong hoạt động của các cơ quan Đảng, coi đây là nhiệm vụ cấp thiết nhằm nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo, yêu cầu người đứng đầu cấp ủy trực tiếp chỉ đạo và chịu trách nhiệm chính trị về triển khai chuyển đổi số. Đặc biệt, ngày 22/12/2024, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, xác định chuyển đổi số là một trong ba đột phá chiến lược của quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn 2045, yêu cầu hoàn thiện thể chế, phát triển hạ tầng số, bảo đảm an toàn, an ninh mạng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, xây dựng văn hóa số và phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong chuyển đổi tư duy, hành động và phong cách lãnh đạo số. Qua đó, có thể thấy sự phát triển nhất quán và toàn diện trong tư duy chỉ đạo của Đảng về chuyển đổi số, từ chủ động tham gia cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến xác lập chuyển đổi số là đột phá chiến lược trong xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị.
Thể chế hóa quan điểm của Đảng, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành một hệ thống chính sách đồng bộ, chiến lược và hành động cao, đưa chuyển đổi số trở thành chương trình trọng tâm quốc gia. Quyết định số 749/QĐ-TTg, ngày 03/6/2020 phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, đặt mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam trở thành quốc gia số với nền kinh tế số năng động, xã hội số toàn diện, Chính phủ số hiệu quả, lấy người dân làm trung tâm, chủ thể và động lực. Ngày 15/6/2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 942/QĐ-TTg, phê duyệt Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030, đặt mục tiêu đến năm 2025 cung cấp trực tuyến toàn trình 100% dịch vụ công đủ điều kiện, tích hợp trên Cổng dịch vụ công quốc gia, cùng các hệ thống báo cáo phục vụ điều hành, bảo đảm sự hài lòng của người dân, doanh nghiệp. Ngày 31/3/2022, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ban hành Quyết định số 411/QĐ-TTg, phê duyệt Chiến lược quốc gia về phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, đặt mục tiêu đến năm 2025 tỷ trọng kinh tế số đạt 20% GDP; tỷ lệ dân số có tài khoản thanh toán điện tử đạt trên 80%; 100% cơ sở giáo dục phổ thông có khả năng tổ chức dạy học trực tuyến. Đồng thời, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 13/NQ-CP, ngày 07/02/2023 về tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi số trong hoạt động cơ quan nhà nước, coi nêu gương của người đứng đầu là tiêu chí đánh giá hoàn thành nhiệm vụ. Hệ thống pháp luật cũng được hoàn thiện với Nghị định số 42/2022/NĐ-CP, Nghị định số 53/2022/NĐ-CP và Luật Giao dịch điện tử (sửa đổi, 2023), tạo nền tảng pháp lý cho vận hành chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Cùng với đó, nhiều đề án chuyên đề, chương trình mục tiêu ở các bộ, ngành, địa phương như: Đề án 06 của Bộ Công an, Đề án bệnh án điện tử của Bộ Y tế, Đề án dạy học trực tuyến của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Chương trình phổ cập kỹ năng số của Bộ Thông tin và Truyền thông đã được triển khai, thể hiện sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị, hành chính công.
Trong quá trình triển khai, lãnh đạo Đảng, Nhà nước và bộ, ngành đã có nhiều phát biểu chỉ đạo quan trọng, khẳng định quyết tâm chính trị cao và định hướng chiến lược rõ ràng. Nguyên Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định phát triển nhanh, bền vững dựa vào khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là con đường tất yếu để hiện thực hóa khát vọng Việt Nam hùng cường. Tại Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII (tháng 10/2023), Nguyên Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục nhấn mạnh Đảng phải đi đầu trong chuyển đổi số, mỗi cấp ủy, tổ chức Đảng phải là hạt nhân tư tưởng và hành động trong đổi mới phương thức lãnh đạo, quản trị theo tinh thần số. Trong vai trò người đứng đầu Nhà nước, tại buổi gặp mặt 80 trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sĩ tiêu biểu nhân dịp kỷ niệm 80 năm thành lập nước Việt Nam (tháng 8/2025), Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ rõ chuyển đổi số trước hết là chuyển đổi tư duy của từng cán bộ, đảng viên, từng cơ quan, đơn vị, là bước đột phá trong lãnh đạo, quản lý và tổ chức xã hội theo tinh thần lấy dân làm trung tâm, dữ liệu làm nền tảng và hiệu quả phục vụ làm thước đo. Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhiều lần khẳng định vai trò hạt nhân của người đứng đầu trong chuyển đổi số, coi đây là yếu tố quyết định để xây dựng cơ quan số, chính quyền số, đồng thời cảnh báo nếu không đi cùng chuyển đổi số sẽ bị tụt hậu. Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh chuyển đổi số là cuộc cách mạng về tư duy nhiều hơn công nghệ, đòi hỏi đổi mới tư duy quản trị, chính sách và phục vụ.
Tổng hợp các quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, các phát biểu của Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, bộ, ngành Trung ương cho thấy, quan điểm chỉ đạo về chuyển đổi số đã dần hình thành một hệ tư tưởng thống nhất, một hành lang định hướng rõ ràng. Đây là nền tảng chính trị vững chắc để cán bộ, đảng viên yên tâm hành động, chủ động đổi mới, mạnh dạn ứng dụng và không ngừng nâng cao năng lực số - từ đó góp phần hiện thực hóa mục tiêu xây dựng “Đảng số, Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số và công dân số”, theo đúng tinh thần các Nghị quyết của Đảng và Chiến lược quốc gia về chuyển đổi số đã được đề ra.
5. Kiểm soát chặt chẽ, tập trung cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh và thực hiện thủ tục hành chính không phụ thuộc vào địa giới hành chính
Thời gian qua, các bộ, ngành, địa phương đã tập trung cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính (TTHC), điều kiện đầu tư kinh doanh để tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân. Thực hiện các Nghị quyết của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Phương án cắt giảm, đơn giản hóa TTHC, điều kiện kinh doanh thuộc phạm vi quản lý của 14 bộ, cơ quan ngang bộ; theo đó, dự kiến cắt giảm, đơn giản hóa 2.051/4.888 TTHC, đạt tỷ lệ 42%, cắt giảm 2.263/6.974 điều kiện kinh doanh, đạt tỷ lệ 32%; dự kiến sửa đổi, bổ sung 466 văn bản quy phạm pháp luật. Địa phương, hiện có 25/34 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã tích hợp, cung cấp dịch vụ công trực tuyến với TTHC liên quan đến doanh nghiệp trên Cổng Dịch vụ công quốc gia đạt tỷ lệ trên 90%, trong đó có 04 địa phương đã đạt 100%; 34/34 địa phương đã công bố danh mục TTHC không phụ thuộc vào địa giới hành chính trên địa bàn.
Tuy nhiên, theo báo cáo của các bộ, địa phương và tổng hợp dữ liệu trên Cổng Dịch vụ công quốc gia, hiện có tổng số 668 TTHC đặc thù của địa phương, trong đó có một số địa phương có số lượng TTHC đặc thù tăng lên; tỷ lệ TTHC liên quan đến doanh nghiệp được cung cấp trực tuyến của các bộ nhìn chung còn thấp so với mục tiêu đề ra tại Nghị quyết số 66/NQ-CP ngày 26/3/2025, trong đó 08 bộ đạt tỷ lệ dưới 50%; 03 địa phương có tỷ lệ tích hợp, cung cấp dịch vụ công trực tuyến đối với TTHC liên quan đến doanh nghiệp mới đạt dưới 70%; danh mục TTHC không phụ thuộc vào địa giới hành chính của các tỉnh hầu hết mới đạt tỷ lệ khoảng từ 50% đến 95% TTHC đang được cung cấp, trong đó có địa phương mới đạt dưới 10%. Bên cạnh đó, cộng đồng doanh nghiệp tiếp tục phản ánh vẫn còn một số quy định TTHC rườm rà, điều kiện kinh doanh không cần thiết, kéo dài thời gian gia nhập thị trường…
Để cắt giảm tối đa các điều kiện kinh doanh và TTHC, tại Công điện số 187/CĐ- TTg ngày 04/10/2025, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu:
Kiểm soát chặt chẽ và thực hiện nghiêm việc đánh giá tác động TTHC, rà soát, đánh giá điều kiện kinh doanh tại các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; nâng cao hiệu quả việc tham vấn đối tượng chịu tác động đối với quy định TTHC, điều kiện kinh doanh, nhất là các TTHC, điều kiện kinh doanh tác động đến kinh tế tư nhân, liên quan trực tiếp đến doanh nghiệp, hộ kinh doanh; nghiên cứu tiếp thu, giải trình đầy đủ và công khai việc tiếp thu, giải trình ý kiến góp ý TTHC, điều kiện kinh doanh. Tập trung nâng cao chất lượng việc cho ý kiến, thẩm định đối với quy định TTHC trong dự thảo văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành.
Thực thi nghiêm túc, chất lượng, đúng thời hạn các phương án cắt giảm, đơn giản hóa TTHC, điều kiện kinh doanh đã được phê duyệt; đồng thời, chủ động cắt giảm, đơn giản hóa TTHC, điều kiện kinh doanh trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật; trong năm 2025 bảo đảm cắt giảm tối đa điều kiện kinh doanh, giảm tiền kiểm, tăng hậu kiểm, cắt giảm ít nhất 30% thời gian thực hiện TTHC, ít nhất 30% chi phí tuân thủ TTHC liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh. Công bố, công khai kịp thời, đầy đủ, chính xác các TTHC trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC để đội ngũ cán bộ, công chức và doanh nghiệp, nhân dân biết, thực hiện và theo dõi, giám sát, đánh giá quá trình thực hiện. Theo dõi, giám sát, đánh giá việc thực hiện TTHC sau khi ban hành; kịp thời phát hiện để sửa đổi, bổ sung những quy định, TTHC không còn phù hợp, làm cản trở sự phát triển của doanh nghiệp, hộ kinh doanh.
Tập trung nâng cao chất lượng thẩm định quy định về TTHC tại các đề nghị, dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; tổ chức thẩm tra, có ý kiến độc lập về quy định TTHC tại các đề nghị, dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do các bộ, ngành, địa phương; bảo đảm chỉ ban hành mới và duy trì TTHC thật sự cần thiết, hợp pháp, hợp lý, với chi phí tuân thủ thấp nhất. Khẩn trương nghiên cứu, cải cách thủ tục cấp phép theo hướng cắt giảm, đơn giản hóa giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và triển khai trực tuyến, rút ngắn thời gian gia nhập thị trường; nới lỏng rào cản về danh mục hạn chế đầu tư; phối hợp với các bộ, ngành, địa phương tháo gỡ ngay các khó khăn, vướng mắc doanh nghiệp gặp phải do quy định TTHC và thực hiện từ phía các cơ quan nhà nước, nhất là các TTHC liên quan đến đầu tư, gia nhập thị trường.
Để thực hiện TTHC không phụ thuộc vào địa giới hành chính và cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình cần rà soát, triển khai cung cấp dịch vụ công trực tuyến đối với 100% TTHC liên quan đến doanh nghiệp, bảo đảm thông suốt, liền mạch, hiệu quả, minh bạch, giảm tối đa giấy tờ, hoàn thành trong năm 2025. Tập trung hoàn thành việc xây dựng cơ sở dữ liệu chuyên ngành và đưa vào vận hành, kết nối với các cơ sở dữ liệu quốc gia (như đất đai, hộ tịch, xây dựng,…) đáp ứng yêu cầu dữ liệu đúng, đủ, sạch, sống, thống nhất, dùng chung, kết nối, chia sẻ dữ liệu đầy đủ theo thời gian thực với Cổng Dịch vụ công quốc gia, Hệ thống thông tin giải quyết TTHC cấp bộ, cấp tỉnh phục vụ cắt giảm, đơn giản hóa TTHC và triển khai dịch vụ công trực tuyến toàn trình dựa trên dữ liệu. Đẩy nhanh tiến độ hoàn thành việc tái cấu trúc quy trình, cung cấp dịch vụ công trực tuyến theo đúng mục tiêu, yêu cầu tại Kế hoạch số 02-KH/BCĐTW, ngày 19/6/2025 của Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, hướng dẫn của Văn phòng Chính phủ, nhất là các TTHC cho doanh nghiệp và TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp tỉnh, cấp xã.
Công khai kịp thời, đầy đủ danh mục và tổ chức thực hiện TTHC không phụ thuộc vào địa giới hành chính trong phạm vi cấp tỉnh, giúp người dân thuận lợi lựa chọn nộp hồ sơ TTHC phù hợp với nơi cư trú, sinh sống, học tập, làm việc. Tổ chức thực hiện hướng dẫn, tiếp nhận, giải quyết TTHC cho người dân, doanh nghiệp, bảo đảm hiệu quả, thông suốt, tránh xảy ra ách tắc cục bộ, hoàn thành mục tiêu 100% TTHC được thực hiện không phụ thuộc vào địa giới hành chính trong phạm vi cấp tỉnh trong năm 2025. Hoàn thành việc chuyển dịch dữ liệu từ các Hệ thống thông tin của các tỉnh trước sáp nhập sang Hệ thống thông tin hợp nhất, dùng chung sau sáp nhập để phục vụ việc giải quyết TTHC cho người dân, doanh nghiệp; rà soát, bố trí đủ kinh phí, nhân lực, bảo đảm các điều kiện về trang thiết bị và hạ tầng mạng tại cấp xã phù hợp với quy mô, số lượng giao dịch thực tế, trong đó trước mắt các xã có số lượng giao dịch trung bình dưới 20 hồ sơ/ngày không bắt buộc phải trang bị máy lấy số, màn hình hiển thị, bảo đảm hiệu quả, tránh lãng phí, tạo tiền đề để vận hành đồng bộ, hiệu quả Trung tâm Phục vụ hành chính công.
6. Tháo gỡ, xử lý vướng mắc để triển khai các dự án trong thời gian Quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 chưa được phê duyệt điều chỉnh
Ngày 15/9/2025, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 66.3/2025/NQ-CP về tháo gỡ, xử lý vướng mắc để triển khai các dự án trong thời gian quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 chưa được phê duyệt điều chỉnh. Nghị quyết này quy định về biện pháp tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; tháo gỡ, xử lý vướng mắc để triển khai các dự án trong thời gian quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 chưa được phê duyệt điều chỉnh.
Về biện pháp tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất sau khi sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp xã, căn cứ Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được phê duyệt trước thời điểm 01/7/2025, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố phân bổ chỉ tiêu sử dụng đất cho các đơn vị hành chính cấp xã sau sắp xếp để thực hiện công tác quản lý đất đai tại địa phương mà không bị ràng buộc bởi các chỉ tiêu quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất quốc gia đã được phân bổ theo Nghị quyết số 39/2021/QH15, ngày 13/11/2021 của Quốc hội về Quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, kế hoạch sử dụng đất quốc gia 5 năm (2021-2025).
Cơ quan, người có thẩm quyền căn cứ vào quy hoạch sử dụng đất cấp huyện, kế hoạch sử dụng đất hằng năm cấp huyện đã được phê duyệt trước ngày 01/7/2025 hoặc chỉ tiêu sử dụng đất trong phương án phân bổ và khoanh vùng đất đai của quy hoạch tỉnh được phân bổ đến đơn vị hành chính cấp xã sau sắp xếp hoặc quy hoạch được lập theo quy định của pháp luật về quy hoạch đô thị và nông thôn để thực hiện việc thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.
Cách thức xử lý đối với các trường hợp sử dụng đất có sự mâu thuẫn giữa các quy hoạch hoặc chưa phù hợp với quy hoạch đã được phê duyệt, cụ thể: Trường hợp khi thực hiện dự án đã được xác định trong quy hoạch ngành quốc gia, phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hoặc quy hoạch được lập theo pháp luật về quy hoạch đô thị và nông thôn mà có mâu thuẫn chồng chéo với các quy hoạch ngành khác thì cơ quan, người có thẩm quyền căn cứ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hoặc quy hoạch được lập theo pháp luật về quy hoạch đô thị và nông thôn để thực hiện các thủ tục thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.
Đối với trường hợp phải thu hồi đất để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nhưng chưa có trong quy hoạch sử dụng đất quốc phòng, quy hoạch sử dụng đất an ninh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an gửi văn bản lấy ý kiến của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có đất. Trên cơ sở thống nhất của ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có đất, cơ quan, người có thẩm quyền thực hiện việc thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất theo quy định của pháp luật. Trường hợp ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có đất không thống nhất thì Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Đối với những dự án đã được chấp thuận, quyết định chủ trương đầu tư hoặc quyết định đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư công, pháp luật về đầu tư theo phương thức đối tác công tư và pháp luật về đầu tư phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt trước ngày Luật Đất đai năm 2024 có hiệu lực thi hành mà phải thu hồi đất quốc phòng, đất an ninh, tài sản gắn liền với đất để chuyển giao cho địa phương thực hiện dự án phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng nhưng diện tích đất dự kiến thu hồi chưa được xác định trong quy hoạch sử dụng đất quốc phòng, quy hoạch sử dụng đất an ninh là đất chuyển giao cho địa phương thì ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có đất thu hồi lấy ý kiến Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đối với đất quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an đối với đất an ninh. Trên cơ sở thống nhất của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an thì cơ quan, người có thẩm quyền thực hiện việc thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất theo quy định của pháp luật. Trường hợp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an không thống nhất thì ủy ban nhân dân cấp tỉnh báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có đất thu hồi chịu trách nhiệm về tính chính xác của thông tin đảm bảo có trong quy hoạch sử dụng đất được duyệt trước ngày 01/8/2024.
Trường hợp phải thu hồi đất quốc phòng, đất an ninh, tài sản gắn liền với đất để chuyển giao cho địa phương thực hiện dự án phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng nhưng diện tích đất dự kiến thu hồi chưa được xác định trong quy hoạch sử dụng đất quốc phòng, quy hoạch sử dụng đất an ninh là đất chuyển giao cho địa phương thì ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có đất thu hồi, lấy ý kiến của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đối với đất quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an đối với đất an ninh. Trên cơ sở thống nhất của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an thì cơ quan, người có thẩm quyền thực hiện việc thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất theo quy định của pháp luật. Trường hợp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an không thống nhất thì ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có đất báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
7. Một số quy định mới của Đảng
7.1. Tiêu chuẩn chức danh cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý và khung tiêu chuẩn chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp (theo Quy định số 365-QĐ/TW ngày 30/8/2025 của Bộ Chính trị)
Quy định số 365-QĐ/TW nêu cụ thể tiêu chuẩn chức danh cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý và khung tiêu chuẩn chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp trong hệ thống chính trị. Quy định này áp dụng đối với cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị và cá nhân có thẩm quyền trong công tác cán bộ. Đồng thời, áp dụng đối với cán bộ được xem xét quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, điều động, bố trí, luân chuyển, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử vào các chức danh lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị ở Trung ương và địa phương.
Quy định này là cơ sở để xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược có đủ đức, đủ tài, đủ tâm, đủ tầm, đủ sức, đủ nhiệt huyết cách mạng, đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới. Các tiêu chuẩn chức danh cán bộ có quan hệ mật thiết với nhau. Coi trọng cả "đức" và "tài", lấy phẩm chất đạo đức, lối sống làm gốc, năng lực, hiệu quả công tác là thước đo để lựa chọn cán bộ.
Tiêu chuẩn chung đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp gồm: chính trị, tư tưởng; phẩm chất đạo đức, lối sống và ý thức tổ chức kỷ luật; trình độ, năng lực; uy tín và khả năng quy tụ, đoàn kết; kết quả công tác; về sức khoẻ, độ tuổi và kinh nghiệm. Quy định cũng nêu rõ tiêu chuẩn chức danh đối với cán bộ thuộc diện trung ương quản lý, trong đó yêu cầu ngoài bảo đảm đầy đủ tiêu chuẩn chung thì đồng thời cũng phải đáp ứng các tiêu chuẩn của mỗi chức danh.
Ủy viên Trung ương Đảng phải là cán bộ tiêu biểu của Đảng về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, tính tiền phong, gương mẫu, tính xây dựng, tính chiến đấu, tính hành động, tính kỷ luật, tính nhân văn, năng lực, uy tín về mọi mặt. Những người này cũng phải là những cán bộ được đào tạo cơ bản, có kiến thức toàn diện, được rèn luyện, thử thách qua thực tiễn, có tư duy đổi mới, tầm nhìn chiến lược, tâm huyết, trách nhiệm, tích cực tham gia thảo luận, đóng góp, hoạch định đường lối, chính sách và sự lãnh đạo tập thể của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Có thành tích nổi trội, có kết quả, "sản phẩm" cụ thể trong quá trình công tác; có khả năng quy tụ, đoàn kết, thống nhất và huy động sức mạnh tổng hợp, tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách, nhiệm vụ của Đảng, chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn mới ở lĩnh vực, địa bàn công tác được phân công quản lý, phụ trách. Có năng lực dự báo, xử lý, ứng phó kịp thời, hiệu quả những tình huống đột xuất, bất ngờ; có khả năng làm việc độc lập. Có tố chất, năng lực lãnh đạo, quản lý cấp chiến lược; có hoài bão, khát vọng đổi mới vì nước, vì dân. Kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, quan liêu, lợi ích nhóm. Là những người đã kinh qua và hoàn thành tốt nhiệm vụ ở các chức vụ lãnh đạo chủ chốt cấp dưới trực tiếp và tương đương.
Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng là những cán bộ trẻ; cơ bản đáp ứng được tiêu chuẩn của Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Quyết liệt, hiệu quả trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; hiểu biết tình hình trong nước, khu vực và thế giới; có khả năng tham gia, đóng góp ý kiến và đề xuất những vấn đề thực tiễn đặt ra để Ban Chấp hành Trung ương Đảng thảo luận, quyết định. Những cán bộ ở vị trí này cũng phải qua thực tiễn công tác thể hiện có năng lực, tố chất lãnh đạo, quản trị, quản lý, hoàn thành tốt nhiệm vụ ở chức vụ đã kinh qua, có triển vọng phát triển và có khả năng đáp ứng ngay khi có yêu cầu phân công, bố trí đảm nhiệm chức danh lãnh đạo các địa phương, cơ quan, đơn vị có cơ cấu Ủy viên Trung ương Đảng.
Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư phải bảo đảm đầy đủ các tiêu chuẩn của Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng; đồng thời cần có thêm các tiêu chuẩn như thật sự tiêu biểu, mẫu mực của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trí tuệ, ý chí chiến đấu, năng lực lãnh đạo, quản lý, quản trị, ý thức tổ chức kỷ luật; không bị chi phối bởi sự can thiệp, sức ép bên ngoài và lợi ích nhóm. Nhân sự phải quyết đoán, quyết liệt, hiệu quả trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; hiểu biết sâu rộng tình hình đất nước, khu vực và thế giới; nhạy cảm về chính trị, nhạy bén về kinh tế, am hiểu sâu sắc về xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại; có ý thức trách nhiệm cao, có khả năng xây dựng chiến lược phát triển dài hạn cho đất nước, đóng góp ý kiến trong việc hoạch định đường lối, chính sách và phát hiện, đề xuất những vấn đề thực tiễn đặt ra để Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư thảo luận, quyết định; có tâm, có tầm và trách nhiệm trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ, bảo đảm sự kế thừa, phát triển, chuyển tiếp vững vàng giữa các thế hệ cán bộ. Những cán bộ này phải là Ủy viên chính thức Trung ương Đảng trọn một nhiệm kỳ trở lên; đã kinh qua và hoàn thành tốt nhiệm vụ ở các chức vụ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh (bí thư; chủ tịch HĐND, chủ tịch UBND) hoặc trưởng các ban, bộ, ngành, MTTQ, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương và tương đương. Trường hợp Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư công tác trong quân đội thì phải kinh qua chức vụ chủ trì cấp quân khu. Trường hợp đặc biệt do Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định.
Quy định này thay thế Quy định 89-QĐ/TW, ngày 04/8/2017 của Bộ Chính trị về khung tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp và Quy định 214-QĐ/TW, ngày 02/01/2020 của Bộ Chính trị về khung tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý.
7.2. Về việc kiểm điểm và đánh giá, xếp loại chất lượng đối với tập thể, cá nhân trong hệ thống chính trị (theo Quy định số 366-QĐ/TW, ngày 30/8/2025 của Bộ Chính trị)
Quy định này thay thế Quy định số 124-QĐ/TW, ngày 04/10/2023 của Bộ Chính trị về kiểm điểm và đánh giá, xếp loại chất lượng hằng năm đối với các tập thể, cá nhân trong hệ thống chính trị; có hiệu lực từ ngày 30/8/2025; áp dụng đối với cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo, quản lý, tổ chức, cơ quan, đơn vị (gọi tắt là tập thể) và cá nhân trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở.
Quy định ban hành nhằm mục đích bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ về kiểm điểm, đánh giá, xếp loại chất lượng đối với tập thể, cá nhân trong hệ thống chính trị. Nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình, tự soi, tự sửa, thấy được ưu điểm để phát huy, hạn chế, khuyết điểm để khắc phục; chủ động phát hiện, ngăn chặn biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Xây dựng tiêu chí để đánh giá tập thể, cá nhân trong hệ thống chính trị nhằm xác định mức độ hoàn thành nhiệm vụ làm căn cứ để bổ nhiệm, quy hoạch, sử dụng, đãi ngộ, khen thưởng, sàng lọc, thay thế, kỷ luật, tạm đình chỉ công tác, cho thôi giữ chức vụ, từ chức, miễn nhiệm đối với cán bộ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, năng lực hạn chế, không hoàn thành nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, sáng tạo phục vụ người dân, doanh nghiệp, đóng góp vào sự phát triển đất nước trong giai đoạn mới.
Việc kiểm điểm và đánh giá, xếp loại chất lượng đối với tập thể, cá nhân trong hệ thống chính trị cần bảo đảm các yêu cầu sau: Thống nhất về nguyên tắc, khung tiêu chí, phương pháp, thẩm quyền, quy trình, thủ tục đánh giá tập thể, cá nhân trong hệ thống chính trị theo phân cấp, bảo đảm đồng bộ, thống nhất từ Trung ương đến cơ sở. Đánh giá phải dựa trên hiệu quả công việc, kết quả thực hiện nhiệm vụ, sản phẩm cụ thể gắn với vị trí việc làm, chức trách, nhiệm vụ theo số lượng, tiến độ, chất lượng. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của tập thể, nhất là người đứng đầu và từng cán bộ, đảng viên; bảo đảm công tác kiểm điểm, đánh giá, xếp loại phải dân chủ, công tâm, khách quan, khoa học, đúng thực chất, chống hình thức. Đồng bộ với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và cải cách hành chính nhà nước, nhất là trong bối cảnh thực hiện chuyển đổi số.
Các nguyên tắc trong quá trình thực hiện: Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng; thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ; kiểm điểm tự phê bình và phê bình nghiêm túc, cầu thị, trên tinh thần xây dựng, giữ vững sự đoàn kết, thống nhất, đúng thẩm quyền, trách nhiệm. Thực hiện đánh giá theo hướng xuyên suốt, liên tục, đa chiều, có tiêu chí và thông qua sản phẩm cụ thể; kết hợp giữa tiêu chí định tính với tiêu chí định lượng, trong đó, đặc biệt chú trọng các tiêu chí định lượng về kết quả, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ; xếp loại phản ánh đúng thực chất mức độ hoàn thành nhiệm vụ, được kiểm chứng, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao. Việc kiểm điểm tập thể, cá nhân được thực hiện định kỳ hằng năm hoặc khi có yêu cầu. Việc đánh giá được thực hiện thường xuyên, liên tục trên cơ sở kế hoạch, chương trình công tác, nhiệm vụ được giao và làm căn cứ để đánh giá, xếp loại cả năm, nhiệm kỳ. Lấy kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị làm trọng tâm, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống làm nền tảng, phương pháp, năng lực quản lý, điều hành làm cơ sở quyết định kết quả đánh giá. Gắn trách nhiệm cá nhân với tập thể; gắn kết quả của người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo, quản lý với kết quả của địa phương, tổ chức, cơ quan, đơn vị. Tăng cường kiểm tra, giám sát, bảo đảm thực hiện thống nhất, đồng bộ trong toàn hệ thống chính trị.
Bộ Chính trị quy định khung, mang tính nguyên tắc, chỉ đạo định hướng để các cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức, cơ quan, đơn vị có trách nhiệm tiếp tục cụ thể hóa, nhất là nội dung kiểm điểm, xây dựng bộ tiêu chí đánh giá phù hợp với đặc điểm ngành, lĩnh vực, chức trách, nhiệm vụ theo phân cấp quản lý, bảo đảm thống nhất, đồng bộ theo yêu cầu tại Điều 6, Điều 10 và Điều 18 Quy định này. Thực hiện thống nhất việc tập thể, cá nhân được kiểm điểm thì phải đánh giá, xếp loại. Kết quả đánh giá, xếp loại cán bộ, công chức, viên chức, người lao động là cơ sở để đánh giá, xếp loại chất lượng đảng viên. Đánh giá, xếp loại chất lượng đảng viên theo kết quả thực hiện nhiệm vụ tại chi bộ; đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ, công chức, viên chức ở nơi giữ chức vụ cao nhất; đánh giá, xếp loại tổ chức đảng, tổ chức, cơ quan, đơn vị trên cơ sở kết quả đánh giá cấp uỷ, tập thể lãnh đạo, quản lý và cán bộ, đảng viên thuộc thẩm quyền quản lý.
Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu trong việc xây dựng kế hoạch công tác, phân công nhiệm vụ phù hợp với từng đối tượng tập thể, cá nhân gắn với mục tiêu, sản phẩm công việc; cấp nào trực tiếp quản lý, phân công công việc thì cấp đó đánh giá, xếp loại; bảo đảm liên thông, thống nhất trong công tác cán bộ; lấy kết quả đánh giá làm căn cứ để sàng lọc, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng, bổ nhiệm cán bộ; đồng thời, làm căn cứ để thay thế, tạm đình chỉ công tác, cho thôi giữ chức vụ, từ chức, miễn nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý; có biện pháp quản lý, sử dụng cán bộ, công chức, viên chức, người lao động phù hợp với mức độ hoàn thành nhiệm vụ hoặc cho thôi việc khi không đáp ứng yêu cầu. Đề cao trách nhiệm của cấp ủy, tập thể lãnh đạo, nhất là người đứng đầu, trong đánh giá cán bộ thuộc quyền quản lý theo phân cấp.
Ban hành kèm theo Quy định số 366-QĐ/TW là 05 bản phụ lục quy định về: Khung tiêu chí đánh giá đối với tập thể; Khung tiêu chí đánh giá đối với cá nhân cán bộ lãnh đạo, quản lý thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý; Khung tiêu chí đánh giá đối với cá nhân giữ chức lãnh đạo, quản lý; Khung tiêu chí đánh giá đối với cá nhân không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý; Khung tiêu chí đánh giá đối với đảng viên không làm việc trong hệ thống chính trị.
7.3. Danh mục vị trí chức danh, nhóm chức danh, chức vụ lãnh đạo của hệ thống chính trị (theo Quy định số 368-QĐ/TW, ngày 08/9/2025 của Bộ Chính trị)
Quy định số 368-QĐ/TW có hiệu lực từ ngày 08/9/2025, thay thế Kết luận số 35-KL/TW ngày 05/5/2022 của Bộ Chính trị về danh mục chức danh, chức vụ lãnh đạo và tương đương của hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở. Quy định này quy định về phạm vi, đối tượng, mục đích, yêu cầu, quan điểm, nguyên tắc và nội dung ban hành Danh mục vị trí chức danh, nhóm chức danh, chức vụ lãnh đạo của hệ thống chính trị; áp dụng đối với các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị và cán bộ, công chức, viên chức lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị.
Quy định số 368-QĐ/TW được ban hành nhằm xác định vị trí chức danh, nhóm chức danh, chức vụ lãnh đạo của hệ thống chính trị, là cơ sở để thực hiện đồng bộ, thống nhất công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ; là căn cứ quan trọng để xem xét việc xếp lương và phụ cấp đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị. Làm cơ sở để các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị trực thuộc Trung ương cụ thể hóa, xây dựng danh mục vị trí chức danh, nhóm chức danh, chức vụ lãnh đạo thuộc thẩm quyền quản lý. Bảo đảm yêu cầu xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả; sự thống nhất, tổng thể, đồng bộ, liên thông giữa các chức danh, chức vụ trong hệ thống chính trị; phù hợp tiêu chuẩn chức danh, chức vụ, vị trí việc làm của từng cơ quan, địa phương, đơn vị. Xác định chức từng địa phương, cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị. Bảo đảm tính khoa học, thực tiễn, công bằng, minh bạch, khách quan, dễ thực hiện và sự kế thừa ổn định; tiến hành thận trọng, kỹ lưỡng. Xem xét, điều chỉnh một số chức danh, chức vụ chưa hợp lý. Khắc phục những hạn chế, bất cập trong công tác cán bộ. Bảo đảm thực hiện nghiêm các chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể quyết định; phát huy đầy đủ trách nhiệm cá nhân, trước hết là người đứng đầu trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ.
Việc sắp xếp các chức danh, chức vụ lãnh đạo phải theo nguyên tắc cấp trưởng, cấp trên trực tiếp xếp theo nhóm, bậc chức vụ nào thì cấp phó, cấp dưới trực tiếp xếp theo nhóm, bậc tương ứng. Chỉ xem xét, sắp xếp đưa vào Danh mục các chức danh, chức vụ lãnh đạo chuyên trách, không sắp xếp các chức danh kiêm nhiệm. Một người đảm nhiệm nhiều chức vụ thì lấy chức vụ cao nhất để xác định vị trí công tác. Chức danh, chức vụ được xác định là tương đương khi được xếp cùng nhóm, cùng bậc, cùng hệ số phụ cấp, cùng đối tượng quản lý. Đối với các chức danh, chức vụ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý thì ngoài Quy định này còn thực hiện theo các quy định khác của Trung ương. Trường hợp đặc biệt do cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
Ban hành kèm theo Quyết định là Danh mục vị trí chức danh, nhóm chức danh, chức vụ lãnh đạo của hệ thống chính trị, gồm các nhóm: Nhóm I: Các chức danh lãnh đạo chủ chốt và lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước. Nhóm II: Các chức danh, chức vụ lãnh đạo thuộc diện Bộ Chính trị quản lý. Nhóm III: Các chức danh, chức vụ lãnh đạo thuộc diện Ban Bí thư quản lý. Nhóm IV: Khung chức danh, chức vụ lãnh đạo thuộc diện cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị quản lý.
8. Đẩy mạnh phát triển nền y học cổ truyền Việt Nam trong giai đoạn mới
Thời gian qua, y học cổ truyền Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng đáng khích lệ. Để phát huy hơn nữa vị thế, vai trò của nền y học cổ truyền Việt Nam trong chăm sóc sức khỏe Nhân dân gắn với phát triển kinh tế - xã hội, kịp thời khắc phục những tồn tại, hạn chế, bất cập, tại Chỉ thị số 25/CT-TTg ngày 15/9/2025, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu:
Rà soát, nghiên cứu hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách phù hợp với đặc thù của y học cổ truyền nhằm thúc đẩy y học cổ truyền phát triển đúng với tiềm năng vốn có, tăng cường kết hợp y học cổ truyền và y học hiện đại; nghiên cứu mở rộng phạm vi sử dụng, thanh toán bảo hiểm y tế đối với các loại thuốc cổ truyền, thuốc dược liệu, dược liệu, dịch vụ khám, chữa bệnh bằng y học cổ truyền; đề xuất xây dựng Luật về y học cổ truyền. Hoàn thiện tiêu chuẩn, chức danh nghề nghiệp trong lĩnh vực y học cổ truyền; nghiên cứu, đề xuất đầu tư xây dựng mới, nâng cấp, mở rộng quy mô các cơ sở khám chữa bệnh y học cổ truyền phù hợp với quy hoạch mạng lưới cơ sở y tế và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội các địa phương; chú trọng lựa chọn thứ tự ưu tiên đầu tư và ưu tiên bố trí nguồn đầu tư công để đầu tư đối với một số cơ sở đang có yêu cầu cấp bách. Nghiên cứu, đề xuất các nhiệm vụ khoa học công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước để tập trung nghiên cứu một số bài thuốc, nghiên cứu phát triển các sản phẩm từ dược liệu, thuốc cổ truyền,...
Nghiên cứu, đề xuất, tổ chức thực hiện các chính sách, cơ chế phù hợp về nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực y học cổ truyền theo yêu cầu của Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22/12/ 2024 của Bộ Chính trị, phù hợp với quy định của pháp luật về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo; nghiên cứu đề xuất cơ chế phù hợp để chi ngân sách, đầu tư cho hoạt động nghiên cứu lâm sàng, nghiên cứu dinh dưỡng trong y học cổ truyền nhằm hỗ trợ hiệu quả công tác phòng bệnh, điều trị và phục hồi sức khỏe. Ban hành bản đồ quy hoạch vùng trồng dược liệu cấp quốc gia và địa phương; bảo tồn nguồn dược liệu quý hiếm, đặc hữu; chuẩn hóa các quy trình nuôi trồng, thu hái, bảo quản, chế biến dược liệu đảm bảo chất lượng và an toàn, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế, gắn với việc thiết lập hệ thống truy xuất nguồn gốc bằng công nghệ số nhằm kiểm soát chất lượng, minh bạch hóa chuỗi cung ứng và phục vụ mục tiêu xuất khẩu.
Đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực y học cổ truyền, nhất là nguồn nhân lực chuyên sâu, chất lượng cao, tạo điều kiện cho đội ngũ y, bác sỹ y học cổ truyền tiếp cận với các kỹ thuật hiện đại để tăng chất lượng kết hợp y học cổ truyền và y học hiện đại. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số thuộc lĩnh vực y học cổ truyền, tập trung số hóa các tài liệu, tư liệu quý về y học cổ truyền, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về vùng dược liệu, các vị thuốc, cây thuốc, bài thuốc, thầy thuốc tiêu biểu, công trình khoa học để dễ dàng bảo tồn và tra cứu; chỉ đạo các địa phương, đơn vị đẩy mạnh chia sẻ thông tin về y học cổ truyền tại địa phương, đơn vị.
Đẩy mạnh, tăng cường, nâng cao hiệu quả các hoạt động hợp tác quốc tế trong các diễn đàn, khuôn khổ song phương, đa phương, tập trung các lĩnh vực mà Việt Nam có thế mạnh và đang có nhu cầu (giao lưu học thuật, trao đổi kinh nghiệm, hợp tác nghiên cứu khoa học, đào tạo và trao đổi nhân lực, thu hút đầu tư nước ngoài,...). Triển khai các điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế, kế hoạch thuộc lĩnh vực y học cổ truyền đã ký kết; xây dựng, tổ chức thực hiện các Chương trình, kế hoạch, dự án hợp tác quốc tế về y học cổ truyền; tổ chức quảng bá, giới thiệu hình ảnh, thương hiệu, giá trị văn hóa của y học cổ truyền Việt Nam trên thế giới.
Cân đối, bố trí nguồn ngân sách để thực hiện, báo cáo cấp có thẩm quyền quyết định theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước, pháp luật về đầu tư công, phù hợp với khả năng cân đối của ngân sách nhà nước; bố trí kinh phí để triển khai các nhiệm vụ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo đã được phê duyệt theo quy định, lưu ý xử lý kịp thời các vấn đề đặc thù của y học cổ truyền; thực hiện chính sách về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với các bài thuốc, phương pháp khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền.
Tổ chức thực hiện hiệu quả hoạt động cho thuê môi trường rừng để phát triển dược liệu; bảo vệ, khai thác, chia sẻ lợi ích từ nguồn gen dược liệu; phát triển nguồn dược liệu trong nước, bảo tồn nguồn dược liệu quý hiếm, tổ chức khai thác nguồn tài nguyên dược liệu theo hướng khoa học và bền vững; chuẩn hóa các quy trình nuôi trồng, thu hái, bảo quản, chế biến dược liệu nhằm đảm bảo chất lượng và an toàn khi sử dụng; hỗ trợ kết nối hoạt động nuôi trồng, chế biến, thương mại các sản phẩm dược liệu, từ dược liệu theo mô hình OCOP; lồng ghép nội dung phát triển mạng lưới cơ sở y học cổ truyền vào các quy hoạch xây dựng đô thị, khu du lịch, sinh thái và nông thôn, bảo đảm đồng bộ về hạ tầng; quản lý chặt chẽ, hiệu quả hoạt động quảng cáo về y học cổ truyền. Thực hiện có hiệu quả dự án phát triển dược liệu trong Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Ưu tiên bố trí ngân sách địa phương để thực hiện công tác phát triển y học cổ truyền; ban hành chính sách, cơ chế ưu đãi theo thẩm quyền nhằm thúc đẩy, khuyến khích, thu hút đầu tư của xã hội phát triển y học cổ truyền trên địa bàn; đầu tư, nâng cấp bệnh viện y học cổ truyền theo hướng hiện đại hóa, phấn đấu mỗi tỉnh có ít nhất 01 bệnh viện với cơ sở hạ tầng, thiết bị hiện đại để thực hiện có hiệu quả công tác kết hợp y học cổ truyền với y học hiện đại trong khám và điều trị; lồng ghép công tác phát triển y học cổ truyền vào trong các chương trình, dự án phát triển y tế dự phòng và y tế cơ sở tại địa phương. Tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động nuôi trồng, sản xuất, kinh doanh dược liệu, thuốc cổ truyền và cung ứng dịch vụ khám, chữa bệnh bằng y học cổ truyền.
Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương
Ngày 03/10/2025, Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành Kết luận số 197-KL/TW về thực hiện một số nội dung, nhiệm vụ trọng tâm trong hoạt động của tổ chức cơ sở đảng thời gian tới, trong đó chỉ đạo triển khai một số nội dung chủ yếu sau:
Khẩn trương tổ chức quán triệt và triển khai ngay nghị quyết, chương trình hành động của đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025-2030. Tổ chức nghiên cứu, quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm, đồng bộ các quy định mới của Bộ Chính trị về công tác cán bộ, nhất là trong đánh giá, sử dụng cán bộ, bảo đảm dân chủ, công tâm, khách quan, minh bạch, xuyên suốt, liên tục, gắn với tiêu chí, sản phẩm cụ thể theo đúng chủ trương “có vào, có ra”, “có lên, có xuống”. Thực hiện tốt các nội dung theo chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của tổ chức cơ sở đảng và quy chế làm việc của cấp ủy cơ sở; trọng tâm là việc tổ chức kiểm điểm, đánh giá, xếp loại tập thể, cá nhân trong hệ thống chính trị năm 2025.
Đảng ủy Chính phủ kịp thời kiện toàn các tổ chức cơ sở đảng đồng bộ với sắp xếp tổ chức bộ máy đối với một số cơ quan. Khẩn trương hoàn thành việc chuyển giao tổ chức đảng các doanh nghiệp nhà nước (tập đoàn kinh tế, tổng công ty, ngân hàng thương mại nhà nước…) về trực thuộc cấp ủy địa phương nơi đặt trụ sở (hoàn thành trong tháng 10/2025). Chỉ đạo xây dựng cơ chế, quy chế phối hợp giữa đảng ủy các bộ, ngành có liên quan, đảng uỷ các tập đoàn kinh tế, tổng công ty, ngân hàng thương mại nhà nước với cấp ủy địa phương, bảo đảm quản lý tốt đảng viên tại cơ sở, không ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp. Chỉ đạo hướng dẫn cụ thể việc tăng cường vai trò lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của tổ chức đảng, nhất là vai trò người đứng đầu cấp ủy trong các cơ sở giáo dục; không tổ chức hội đồng trường trong các cơ sở giáo dục công lập (trừ các trường công lập có thỏa thuận quốc tế) và thực hiện chủ trương bí thư cấp ủy kiêm người đứng đầu cơ sở giáo dục theo đúng quy định.
Văn phòng Trung ương Đảng chủ trì, phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương và các cơ quan liên quan khẩn trương hoàn thành cơ sở dữ liệu đảng viên; triển khai thực hiện Sổ tay đảng viên điện tử và các phần mềm, ứng dụng theo kế hoạch, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng.
Các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương tiếp tục thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 50-CT/TW, ngày 23/7/2025 của Ban Bí thư về đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng cho đảng viên, nêu cao tính tiên phong, gương mẫu của mỗi đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ chính trị và các chủ trương lớn của Đảng. Tiếp tục sắp xếp, kiện toàn tổ chức đảng phù hợp với sắp xếp tổ chức hành chính. Tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động của tổ chức cơ sở đảng bảo đảm thực hiện đúng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
2. Thực hiện pháp luật về phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền khi vận hành chính quyền địa phương 02 cấp
Ngày 19/9/2025, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành Kết luận số 192-KL/TW về thực hiện pháp luật về phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền khi vận hành chính quyền địa phương 2 cấp, trong đó có một số nội dung cơ bản sau:
Bộ Chính trị, Ban Bí thư cơ bản thống nhất với báo cáo của Đảng ủy Chính phủ, ghi nhận và biểu dương Đảng ủy Chính phủ, Đảng ủy Quốc hội, Đảng ủy Bộ Nội vụ, Đảng ủy Bộ Tư pháp và các bộ, cơ quan ngang bộ đã rất tích cực, chủ động, nỗ lực, cố gắng, phát huy tinh thần trách nhiệm trong tham mưu, đề xuất các nhiệm vụ về phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền; kịp thời tháo gỡ nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện. Đánh giá cao các tỉnh ủy, thành ủy và Đảng ủy xã, phường, đặc khu đã chủ động, sáng tạo, linh hoạt trong chỉ đạo, điều hành và quyết tâm trong tổ chức thực hiện các nhiệm vụ được phân cấp, phân quyền, góp phần từng bước nâng cao hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương 02 cấp.
Bộ Chính trị, Ban Bí thư giao Đảng ủy Quốc hội chỉ đạo ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để bảo đảm thống nhất, đồng bộ hệ thống pháp luật về phân cấp, phân quyền theo quy định của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương và những vấn đề khác liên quan đến thủ tục pháp lý; đề nghị Quốc hội thông qua giám sát, phát hiện những vấn đề bất cập của địa phương thì đề xuất sửa đổi các quy định cho phù hợp với thực tiễn.
Bộ Chính trị, Ban Bí thư giao Đảng ủy Chính phủ chỉ đạo các bộ, cơ quan ngang bộ thực hiện những nhiệm vụ sau: Rà soát, đánh giá kỹ lưỡng tính khả thi trong thực hiện nhiệm vụ phân quyền, phân cấp, phân định thẩm quyền trong quản lý, đề xuất phương án xử lý phù hợp. Tiếp tục rà soát hệ thống pháp luật chuyên ngành để bổ sung, hoàn thiện phân cấp, phân quyền theo đúng phương châm "địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm". Tiếp tục tăng cường hướng dẫn, hỗ trợ các địa phương thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ được phân cấp, phân quyền, nhất là việc nâng cao năng lực tổ chức thực hiện. Chỉ đạo các bộ: Nội vụ, Tư pháp, Tài chính, Giáo dục và Đào tạo, Khoa học và Công nghệ, Xây dựng, Nông nghiệp và Môi trường thực hiện các nhiệm vụ cụ thể để hoàn thiện và nâng cao hiệu quả phân cấp, phân quyền.
Các đồng chí bộ trưởng, bí thư tỉnh ủy, thành ủy, chủ tịch ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực tiếp kiểm tra, đánh giá các nhiệm vụ của bộ, của địa phương đang triển khai ở cấp xã, phường để có hướng dẫn, chỉ đạo kịp thời.
Các tỉnh ủy, thành ủy tiếp tục đánh giá khả năng thực hiện pháp luật về phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền tại địa phương để kịp thời điều chỉnh, hướng dẫn, sửa đổi hoặc đề xuất cấp có thẩm quyền sửa đổi, ban hành văn bản mới phù hợp với lộ trình, yêu cầu của Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương và phù hợp với tình hình thực tiễn. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện sát sao, đầy đủ, có hiệu quả các nhiệm vụ được phân cấp, phân quyền, khắc phục ngay những vướng mắc, bất cập, tăng cường toàn diện cho cấp xã, bảo đảm chính quyền địa phương 2 cấp vận hành thông suốt, hiệu quả.
3. Tình hình, kết quả hoạt động của bộ máy hệ thống chính trị và chính quyền địa phương 02 cấp và nhiệm vụ trong thời gian tới
Ngày 26/9/2025, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành Kết luận số 195-KL/TW về tình hình, kết quả hoạt động của bộ máy hệ thống chính trị và chính quyền địa phương 2 cấp, trong đó yêu cầu các cấp ủy một số nội dung chủ yếu sau:
Tổ chức thành công đại hội các đảng bộ trực thuộc Trung ương theo đúng kế hoạch. Chú trọng tuyên truyền trước, trong và sau đại hội. Nghiên cứu kỹ và tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm các kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị và bộ máy chính quyền địa phương 2 cấp; kịp thời tháo gỡ khó khăn, khắc phục những bất cập, mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định liên quan đến hoạt động của bộ máy mới, nhất là cấp cơ sở; tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm báo cáo, văn bản, hội họp không cần thiết; tăng cường kiểm tra, hướng dẫn, tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ; tiếp tục rà soát, tinh gọn bộ máy bên trong; tập trung khẩn trương sắp xếp, bố trí lại đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, bảo đảm tổ chức bộ máy hoạt động thông suốt, hiệu lực, hiệu quả theo phương châm "mới phải tốt hơn cũ, nói đi đôi với làm, đoàn kết thống nhất vì nhân dân phục vụ", không để gián đoạn hoạt động công vụ, không bỏ sót nhiệm vụ...
Khẩn trương triển khai các nghị quyết của Bộ Chính trị mới ban hành; tiếp tục đổi mới công tác nghiên cứu, học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng; đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền về chủ trương, đường lối, định hướng, chiến lược phát triển đất nước, cơ chế, chính sách, thành tựu về kinh tế - xã hội, hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương 2 cấp, tăng cường đấu tranh ngăn chặn phản bác thông tin sai trái, thù địch trên không gian mạng; nhân rộng các mô hình tốt, cách làm hay, hiệu quả, tạo sức lan tỏa, đồng thuận xã hội.
Giao Đảng ủy Chính phủ, Chính phủ, các cơ quan có liên quan tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Đảng ủy Quốc hội trong việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến xây dựng, hoàn thiện thể chế được giao tại các nghị quyết, kết luận, kế hoạch của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các nhiệm vụ nêu tại Kế hoạch số 56-KH/BCĐ, ngày 04/7/2025 của Ban Chỉ đạo Trung ương về tiếp tục hoàn thiện tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị và chuẩn bị Đại hội đảng bộ các cấp.
Đảng ủy Chính phủ tập trung triển khai thực hiện nghiêm Kết luận số 192-KL/TW, ngày 19/9/2025 của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, nhất là rà soát, đánh giá kỹ lưỡng tính khả thi trong thực hiện nhiệm vụ phân quyền, phân cấp, phân định thẩm quyền trong quản lý, đề xuất phương án xử lý kịp thời các vướng mắc, sửa đổi, bổ sung ban hành kịp thời các nghị định của Chính phủ có liên quan đến hoạt động của mô hình chính quyền địa phương 02 cấp, rà soát, hiệu chỉnh tổ chức bộ máy chuyên môn các sở, ngành và việc phân cấp, phân quyền cho cơ sở.
Chỉ đạo hướng dẫn hoàn thiện quy hoạch phát triển tỉnh, xã, phường, đặc khu hoàn thành trước ngày 30/10/2025. Yêu cầu các đồng chí bộ trưởng, bí thư tỉnh ủy, thành ủy, chủ tịch ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố chịu trách nhiệm quán xuyến chỉ đạo khắc phục những tồn tại, hạn chế đã được chỉ ra qua Báo cáo của Ban Tổ chức Trung ương và Ủy ban Kiểm tra Trung ương thuộc trách nhiệm của bộ, ngành, địa phương mình. Phân công rõ trách nhiệm, xác định rõ thời gian phải hoàn thành, các bộ, ngành, địa phương phải hoàn thành việc giải quyết hồ sơ thủ tục hành chính tồn đọng quá hạn trước ngày 15/10/2025; trực tiếp kiểm tra, đánh giá các nhiệm vụ của bộ, của địa phương đang triển khai ở cấp cơ sở để có hướng dẫn, chỉ đạo kịp thời.
Lãnh đạo, chỉ đạo các bộ, ngành khẩn trương sửa đổi, bổ sung, ban hành kịp thời, đầy đủ các quy trình công tác, cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính đối với các nhiệm vụ đã phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền cho cấp tỉnh, cấp xã bảo đảm dễ làm, dễ kiểm tra; tổ chức tập huấn, trang bị kiến thức, kỹ năng cho đội ngũ công chức cấp tỉnh, cấp xã để thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ được phân cấp, phân quyền.
Chỉ đạo Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Công an và các bộ, ngành, cơ quan liên quan phối hợp, hỗ trợ Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội kết nối cơ sở dữ liệu khối Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư (trước mắt hỗ trợ chuẩn hóa kết nối cơ sở dữ liệu đoàn viên, hội viên theo Kế hoạch số 02-KH/BCĐ, ngày 19/6/2025 của Ban Chỉ đạo Nghị quyết số 57), cơ sở dữ liệu dùng chung quốc gia và cơ sở dữ liệu mở của các ngành theo chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
Chỉ đạo Bộ Nội vụ khẩn trương trình Chính phủ ban hành Nghị định về tiêu chuẩn đơn vị hành chính, phân loại đơn vị hành chính và phân loại đô thị, hoàn thành trong tháng 10/2025; hoàn thiện Đề án tiền lương và phụ cấp, báo cáo cấp có thẩm quyền quyết định để áp dụng chung, thống nhất trong toàn hệ thống chính trị.
Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ khẩn trương hoàn thành đề xuất phương án sắp xếp đơn vị sự nghiệp, sắp xếp doanh nghiệp nhà nước và bộ máy bên trong các doanh nghiệp thuộc thẩm quyền quản lý của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và địa phương phù hợp tình hình mới; hoàn thành trong tháng 10/2025.
Làm rõ nguyên nhân, kiểm điểm trách nhiệm các tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện chưa nghiêm túc, kịp thời các kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và chậm thực hiện chế độ, chính sách đối với các trường hợp nghỉ công tác theo quy định, báo cáo Bộ Chính trị (qua Ban Tổ chức Trung ương) trước ngày 15/10/2025; hướng dẫn việc chi trả chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức, người lao động đã có quyết định nghỉ hưu, nghỉ thôi việc trước ngày 31/8/2025 chưa được thanh toán; thực hiện xong việc chi trả trước ngày 15/10/2025 đối với các trường hợp đã có quyết định nghỉ trước ngày 31/8/2025.
Các bộ, ngành, địa phương tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Kế hoạch số 02-KH/BCĐ, ngày 19/6/2025 của Ban Chỉ đạo Nghị quyết số 57 về chuyển đổi số trong hệ thống chính trị, khẩn trương khắc phục những tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc về thể chế, cơ sở vật chất, hạ tầng công nghệ và nhân lực đã được chỉ ra trong Báo cáo của Ủy ban Kiểm tra Trung ương.
Giao Thường trực Ban Chỉ đạo Nghị quyết số 57-NQ/TW làm việc cụ thể với các cơ quan: Đảng ủy các cơ quan Đảng Trung ương, Đảng ủy Chính phủ, Đảng ủy Quốc hội, Đảng ủy Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương để đôn đốc tháo gỡ khó khăn, vướng mắc bảo đảm đồng bộ, liên thông trong hệ thống chính trị.
Giao Đảng ủy Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể Trung ương lãnh đạo, chỉ đạo khẩn trương báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư quyết định trong tuần đầu tháng 10/2025: Việc sắp xếp tổ chức bộ máy của toàn bộ các tổ chức chính trị - xã hội, hội quần chúng do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ ở cấp Trung ương và cấp tỉnh và lập tổ chức đảng tương ứng, phù hợp của từng tổ chức chính trị - xã hội và triển khai thực hiện. Rà soát, sắp xếp các cơ quan báo chí trực thuộc cơ quan Trung ương Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và các hội quần chúng do Đảng và Nhà nước giao nhiệm vụ. Hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam trong tình hình mới.
Yêu cầu các đồng chí bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, bí thư cấp ủy các địa phương căn cứ Báo cáo của Ban Tổ chức Trung ương và Báo cáo giám sát của Ủy ban Kiểm tra Trung ương trực tiếp quán xuyến, chỉ đạo khắc phục những tồn tại, hạn chế đã được chỉ ra thuộc trách nhiệm của bộ, ngành, địa phương; phân công rõ trách nhiệm và xác định rõ thời gian phải hoàn thành việc khắc phục. Rà soát, đánh giá thực trạng tình hình đội ngũ cán bộ trước và sau khi sắp xếp đơn vị hành chính, thực hiện mô hình chính quyền địa phương 02 cấp; xác định tình trạng thiếu, thừa, nguyên nhân, giải pháp khắc phục, làm rõ việc sắp xếp cán bộ huyện (cũ), xã (cũ), báo cáo Bộ Chính trị (qua Ban Tổ chức Trung ương trước ngày 15/10/2025).
Tăng cường tổ chức tập huấn, trang bị kiến thức, kỹ năng cho đội ngũ công chức tại địa phương để thực hiện hiệu quả nhiệm vụ được phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền. Tiếp tục quan tâm, bố trí đầy đủ trang thiết bị, phương tiện làm việc, nhất là điều kiện về đường truyền, tín hiệu kết nối; hoàn thiện hạ tầng số, nền tảng số, dữ liệu số bảo đảm kết nối thông suốt giữa các cấp chính quyền Trung ương đến tỉnh, xã; xây dựng và khai thác hiệu quả các cơ sở dữ liệu; tăng cường ứng dụng khoa học, công nghệ trong quản lý, giải quyết thủ tục hành chính; lồng ghép với chương trình chuyển đổi số, cải cách hành chính gắn phân cấp với cải cách thủ tục hành chính và số hóa, chuẩn hóa quy trình công việc. Báo cáo kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai các nhiệm vụ được phân cấp, phân quyền, phân định thẩm quyền về các ban, bộ, ngành để sớm có giải pháp tháo gỡ bảo đảm cho hoạt động được thông suốt, hiệu quả. Lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan chuyên môn, tham mưu, giúp việc cấp ủy, chính quyền địa phương tích cực rà soát để báo cáo cơ quan có thẩm quyền ban hành giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thể chế, chính sách, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
Giao Ban Tổ chức Trung ương chủ trì, phối hợp cùng các cấp ủy, cơ quan, đơn vị liên quan giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư thường xuyên theo dõi, nắm chắc tình hình, tham gia ý kiến (khi cần thiết) trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ của các cấp ủy, cơ quan, đơn vị bảo đảm đúng tiến độ, chủ trương, yêu cầu của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chỉ đạo; điều chỉnh, bổ sung các nội dung, nhiệm vụ và tiến độ thực hiện phù hợp tình hình thực tiễn; sơ kết việc thực hiện Nghị quyết 18 và các kết luận của Bộ Chính trị về vấn đề này, báo cáo Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Hội nghị Trung ương 14 tháng 11/2025.
4. Đảng viên tiên phong trong học tập kỹ năng số
Phần I: Những chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước về chuyển đổi số
Chuyển đổi số, cùng với khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, được Đảng ta xác định là một trong những động lực quan trọng của phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Quá trình này không phải sự thay đổi đột ngột mà là kết quả của tích lũy, tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận, thể hiện qua một hệ thống văn kiện chỉ đạo mang tính chiến lược.
Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã đặt nền móng cho tư duy chiến lược về chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển từ tư duy ứng phó sang tư duy kiến tạo và dẫn dắt, yêu cầu phát triển mạnh mẽ kinh tế số, xã hội số, đổi mới mô hình quản trị dựa trên dữ liệu và công nghệ số, nhấn mạnh vai trò then chốt của cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Tiếp đó, ngày 26/5/2023, Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 34-CT/TW về tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong hoạt động của các cơ quan Đảng, coi đây là nhiệm vụ cấp thiết nhằm nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo, yêu cầu người đứng đầu cấp ủy trực tiếp chỉ đạo và chịu trách nhiệm chính trị về triển khai chuyển đổi số. Đặc biệt, ngày 22/12/2024, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, xác định chuyển đổi số là một trong ba đột phá chiến lược của quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn 2045, yêu cầu hoàn thiện thể chế, phát triển hạ tầng số, bảo đảm an toàn, an ninh mạng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, xây dựng văn hóa số và phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong chuyển đổi tư duy, hành động và phong cách lãnh đạo số. Qua đó, có thể thấy sự phát triển nhất quán và toàn diện trong tư duy chỉ đạo của Đảng về chuyển đổi số, từ chủ động tham gia cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến xác lập chuyển đổi số là đột phá chiến lược trong xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị.
Thể chế hóa quan điểm của Đảng, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành một hệ thống chính sách đồng bộ, chiến lược và hành động cao, đưa chuyển đổi số trở thành chương trình trọng tâm quốc gia. Quyết định số 749/QĐ-TTg, ngày 03/6/2020 phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, đặt mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam trở thành quốc gia số với nền kinh tế số năng động, xã hội số toàn diện, Chính phủ số hiệu quả, lấy người dân làm trung tâm, chủ thể và động lực. Ngày 15/6/2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 942/QĐ-TTg, phê duyệt Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030, đặt mục tiêu đến năm 2025 cung cấp trực tuyến toàn trình 100% dịch vụ công đủ điều kiện, tích hợp trên Cổng dịch vụ công quốc gia, cùng các hệ thống báo cáo phục vụ điều hành, bảo đảm sự hài lòng của người dân, doanh nghiệp. Ngày 31/3/2022, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ban hành Quyết định số 411/QĐ-TTg, phê duyệt Chiến lược quốc gia về phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, đặt mục tiêu đến năm 2025 tỷ trọng kinh tế số đạt 20% GDP; tỷ lệ dân số có tài khoản thanh toán điện tử đạt trên 80%; 100% cơ sở giáo dục phổ thông có khả năng tổ chức dạy học trực tuyến. Đồng thời, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 13/NQ-CP, ngày 07/02/2023 về tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi số trong hoạt động cơ quan nhà nước, coi nêu gương của người đứng đầu là tiêu chí đánh giá hoàn thành nhiệm vụ. Hệ thống pháp luật cũng được hoàn thiện với Nghị định số 42/2022/NĐ-CP, Nghị định số 53/2022/NĐ-CP và Luật Giao dịch điện tử (sửa đổi, 2023), tạo nền tảng pháp lý cho vận hành chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Cùng với đó, nhiều đề án chuyên đề, chương trình mục tiêu ở các bộ, ngành, địa phương như: Đề án 06 của Bộ Công an, Đề án bệnh án điện tử của Bộ Y tế, Đề án dạy học trực tuyến của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Chương trình phổ cập kỹ năng số của Bộ Thông tin và Truyền thông đã được triển khai, thể hiện sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị, hành chính công.
Trong quá trình triển khai, lãnh đạo Đảng, Nhà nước và bộ, ngành đã có nhiều phát biểu chỉ đạo quan trọng, khẳng định quyết tâm chính trị cao và định hướng chiến lược rõ ràng. Nguyên Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định phát triển nhanh, bền vững dựa vào khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là con đường tất yếu để hiện thực hóa khát vọng Việt Nam hùng cường. Tại Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII (tháng 10/2023), Nguyên Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục nhấn mạnh Đảng phải đi đầu trong chuyển đổi số, mỗi cấp ủy, tổ chức Đảng phải là hạt nhân tư tưởng và hành động trong đổi mới phương thức lãnh đạo, quản trị theo tinh thần số. Trong vai trò người đứng đầu Nhà nước, tại buổi gặp mặt 80 trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sĩ tiêu biểu nhân dịp kỷ niệm 80 năm thành lập nước Việt Nam (tháng 8/2025), Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ rõ chuyển đổi số trước hết là chuyển đổi tư duy của từng cán bộ, đảng viên, từng cơ quan, đơn vị, là bước đột phá trong lãnh đạo, quản lý và tổ chức xã hội theo tinh thần lấy dân làm trung tâm, dữ liệu làm nền tảng và hiệu quả phục vụ làm thước đo. Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhiều lần khẳng định vai trò hạt nhân của người đứng đầu trong chuyển đổi số, coi đây là yếu tố quyết định để xây dựng cơ quan số, chính quyền số, đồng thời cảnh báo nếu không đi cùng chuyển đổi số sẽ bị tụt hậu. Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh chuyển đổi số là cuộc cách mạng về tư duy nhiều hơn công nghệ, đòi hỏi đổi mới tư duy quản trị, chính sách và phục vụ.
Tổng hợp các quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, các phát biểu của Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, bộ, ngành Trung ương cho thấy, quan điểm chỉ đạo về chuyển đổi số đã dần hình thành một hệ tư tưởng thống nhất, một hành lang định hướng rõ ràng. Đây là nền tảng chính trị vững chắc để cán bộ, đảng viên yên tâm hành động, chủ động đổi mới, mạnh dạn ứng dụng và không ngừng nâng cao năng lực số - từ đó góp phần hiện thực hóa mục tiêu xây dựng “Đảng số, Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số và công dân số”, theo đúng tinh thần các Nghị quyết của Đảng và Chiến lược quốc gia về chuyển đổi số đã được đề ra.
5. Kiểm soát chặt chẽ, tập trung cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh và thực hiện thủ tục hành chính không phụ thuộc vào địa giới hành chính
Thời gian qua, các bộ, ngành, địa phương đã tập trung cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính (TTHC), điều kiện đầu tư kinh doanh để tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân. Thực hiện các Nghị quyết của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Phương án cắt giảm, đơn giản hóa TTHC, điều kiện kinh doanh thuộc phạm vi quản lý của 14 bộ, cơ quan ngang bộ; theo đó, dự kiến cắt giảm, đơn giản hóa 2.051/4.888 TTHC, đạt tỷ lệ 42%, cắt giảm 2.263/6.974 điều kiện kinh doanh, đạt tỷ lệ 32%; dự kiến sửa đổi, bổ sung 466 văn bản quy phạm pháp luật. Địa phương, hiện có 25/34 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã tích hợp, cung cấp dịch vụ công trực tuyến với TTHC liên quan đến doanh nghiệp trên Cổng Dịch vụ công quốc gia đạt tỷ lệ trên 90%, trong đó có 04 địa phương đã đạt 100%; 34/34 địa phương đã công bố danh mục TTHC không phụ thuộc vào địa giới hành chính trên địa bàn.
Tuy nhiên, theo báo cáo của các bộ, địa phương và tổng hợp dữ liệu trên Cổng Dịch vụ công quốc gia, hiện có tổng số 668 TTHC đặc thù của địa phương, trong đó có một số địa phương có số lượng TTHC đặc thù tăng lên; tỷ lệ TTHC liên quan đến doanh nghiệp được cung cấp trực tuyến của các bộ nhìn chung còn thấp so với mục tiêu đề ra tại Nghị quyết số 66/NQ-CP ngày 26/3/2025, trong đó 08 bộ đạt tỷ lệ dưới 50%; 03 địa phương có tỷ lệ tích hợp, cung cấp dịch vụ công trực tuyến đối với TTHC liên quan đến doanh nghiệp mới đạt dưới 70%; danh mục TTHC không phụ thuộc vào địa giới hành chính của các tỉnh hầu hết mới đạt tỷ lệ khoảng từ 50% đến 95% TTHC đang được cung cấp, trong đó có địa phương mới đạt dưới 10%. Bên cạnh đó, cộng đồng doanh nghiệp tiếp tục phản ánh vẫn còn một số quy định TTHC rườm rà, điều kiện kinh doanh không cần thiết, kéo dài thời gian gia nhập thị trường…
Để cắt giảm tối đa các điều kiện kinh doanh và TTHC, tại Công điện số 187/CĐ- TTg ngày 04/10/2025, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu:
Kiểm soát chặt chẽ và thực hiện nghiêm việc đánh giá tác động TTHC, rà soát, đánh giá điều kiện kinh doanh tại các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; nâng cao hiệu quả việc tham vấn đối tượng chịu tác động đối với quy định TTHC, điều kiện kinh doanh, nhất là các TTHC, điều kiện kinh doanh tác động đến kinh tế tư nhân, liên quan trực tiếp đến doanh nghiệp, hộ kinh doanh; nghiên cứu tiếp thu, giải trình đầy đủ và công khai việc tiếp thu, giải trình ý kiến góp ý TTHC, điều kiện kinh doanh. Tập trung nâng cao chất lượng việc cho ý kiến, thẩm định đối với quy định TTHC trong dự thảo văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành.
Thực thi nghiêm túc, chất lượng, đúng thời hạn các phương án cắt giảm, đơn giản hóa TTHC, điều kiện kinh doanh đã được phê duyệt; đồng thời, chủ động cắt giảm, đơn giản hóa TTHC, điều kiện kinh doanh trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật; trong năm 2025 bảo đảm cắt giảm tối đa điều kiện kinh doanh, giảm tiền kiểm, tăng hậu kiểm, cắt giảm ít nhất 30% thời gian thực hiện TTHC, ít nhất 30% chi phí tuân thủ TTHC liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh. Công bố, công khai kịp thời, đầy đủ, chính xác các TTHC trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC để đội ngũ cán bộ, công chức và doanh nghiệp, nhân dân biết, thực hiện và theo dõi, giám sát, đánh giá quá trình thực hiện. Theo dõi, giám sát, đánh giá việc thực hiện TTHC sau khi ban hành; kịp thời phát hiện để sửa đổi, bổ sung những quy định, TTHC không còn phù hợp, làm cản trở sự phát triển của doanh nghiệp, hộ kinh doanh.
Tập trung nâng cao chất lượng thẩm định quy định về TTHC tại các đề nghị, dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; tổ chức thẩm tra, có ý kiến độc lập về quy định TTHC tại các đề nghị, dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do các bộ, ngành, địa phương; bảo đảm chỉ ban hành mới và duy trì TTHC thật sự cần thiết, hợp pháp, hợp lý, với chi phí tuân thủ thấp nhất. Khẩn trương nghiên cứu, cải cách thủ tục cấp phép theo hướng cắt giảm, đơn giản hóa giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và triển khai trực tuyến, rút ngắn thời gian gia nhập thị trường; nới lỏng rào cản về danh mục hạn chế đầu tư; phối hợp với các bộ, ngành, địa phương tháo gỡ ngay các khó khăn, vướng mắc doanh nghiệp gặp phải do quy định TTHC và thực hiện từ phía các cơ quan nhà nước, nhất là các TTHC liên quan đến đầu tư, gia nhập thị trường.
Để thực hiện TTHC không phụ thuộc vào địa giới hành chính và cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình cần rà soát, triển khai cung cấp dịch vụ công trực tuyến đối với 100% TTHC liên quan đến doanh nghiệp, bảo đảm thông suốt, liền mạch, hiệu quả, minh bạch, giảm tối đa giấy tờ, hoàn thành trong năm 2025. Tập trung hoàn thành việc xây dựng cơ sở dữ liệu chuyên ngành và đưa vào vận hành, kết nối với các cơ sở dữ liệu quốc gia (như đất đai, hộ tịch, xây dựng,…) đáp ứng yêu cầu dữ liệu đúng, đủ, sạch, sống, thống nhất, dùng chung, kết nối, chia sẻ dữ liệu đầy đủ theo thời gian thực với Cổng Dịch vụ công quốc gia, Hệ thống thông tin giải quyết TTHC cấp bộ, cấp tỉnh phục vụ cắt giảm, đơn giản hóa TTHC và triển khai dịch vụ công trực tuyến toàn trình dựa trên dữ liệu. Đẩy nhanh tiến độ hoàn thành việc tái cấu trúc quy trình, cung cấp dịch vụ công trực tuyến theo đúng mục tiêu, yêu cầu tại Kế hoạch số 02-KH/BCĐTW, ngày 19/6/2025 của Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, hướng dẫn của Văn phòng Chính phủ, nhất là các TTHC cho doanh nghiệp và TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp tỉnh, cấp xã.
Công khai kịp thời, đầy đủ danh mục và tổ chức thực hiện TTHC không phụ thuộc vào địa giới hành chính trong phạm vi cấp tỉnh, giúp người dân thuận lợi lựa chọn nộp hồ sơ TTHC phù hợp với nơi cư trú, sinh sống, học tập, làm việc. Tổ chức thực hiện hướng dẫn, tiếp nhận, giải quyết TTHC cho người dân, doanh nghiệp, bảo đảm hiệu quả, thông suốt, tránh xảy ra ách tắc cục bộ, hoàn thành mục tiêu 100% TTHC được thực hiện không phụ thuộc vào địa giới hành chính trong phạm vi cấp tỉnh trong năm 2025. Hoàn thành việc chuyển dịch dữ liệu từ các Hệ thống thông tin của các tỉnh trước sáp nhập sang Hệ thống thông tin hợp nhất, dùng chung sau sáp nhập để phục vụ việc giải quyết TTHC cho người dân, doanh nghiệp; rà soát, bố trí đủ kinh phí, nhân lực, bảo đảm các điều kiện về trang thiết bị và hạ tầng mạng tại cấp xã phù hợp với quy mô, số lượng giao dịch thực tế, trong đó trước mắt các xã có số lượng giao dịch trung bình dưới 20 hồ sơ/ngày không bắt buộc phải trang bị máy lấy số, màn hình hiển thị, bảo đảm hiệu quả, tránh lãng phí, tạo tiền đề để vận hành đồng bộ, hiệu quả Trung tâm Phục vụ hành chính công.
6. Tháo gỡ, xử lý vướng mắc để triển khai các dự án trong thời gian Quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 chưa được phê duyệt điều chỉnh
Ngày 15/9/2025, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 66.3/2025/NQ-CP về tháo gỡ, xử lý vướng mắc để triển khai các dự án trong thời gian quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 chưa được phê duyệt điều chỉnh. Nghị quyết này quy định về biện pháp tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; tháo gỡ, xử lý vướng mắc để triển khai các dự án trong thời gian quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 chưa được phê duyệt điều chỉnh.
Về biện pháp tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất sau khi sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp xã, căn cứ Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được phê duyệt trước thời điểm 01/7/2025, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố phân bổ chỉ tiêu sử dụng đất cho các đơn vị hành chính cấp xã sau sắp xếp để thực hiện công tác quản lý đất đai tại địa phương mà không bị ràng buộc bởi các chỉ tiêu quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất quốc gia đã được phân bổ theo Nghị quyết số 39/2021/QH15, ngày 13/11/2021 của Quốc hội về Quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, kế hoạch sử dụng đất quốc gia 5 năm (2021-2025).
Cơ quan, người có thẩm quyền căn cứ vào quy hoạch sử dụng đất cấp huyện, kế hoạch sử dụng đất hằng năm cấp huyện đã được phê duyệt trước ngày 01/7/2025 hoặc chỉ tiêu sử dụng đất trong phương án phân bổ và khoanh vùng đất đai của quy hoạch tỉnh được phân bổ đến đơn vị hành chính cấp xã sau sắp xếp hoặc quy hoạch được lập theo quy định của pháp luật về quy hoạch đô thị và nông thôn để thực hiện việc thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.
Cách thức xử lý đối với các trường hợp sử dụng đất có sự mâu thuẫn giữa các quy hoạch hoặc chưa phù hợp với quy hoạch đã được phê duyệt, cụ thể: Trường hợp khi thực hiện dự án đã được xác định trong quy hoạch ngành quốc gia, phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hoặc quy hoạch được lập theo pháp luật về quy hoạch đô thị và nông thôn mà có mâu thuẫn chồng chéo với các quy hoạch ngành khác thì cơ quan, người có thẩm quyền căn cứ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hoặc quy hoạch được lập theo pháp luật về quy hoạch đô thị và nông thôn để thực hiện các thủ tục thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.
Đối với trường hợp phải thu hồi đất để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nhưng chưa có trong quy hoạch sử dụng đất quốc phòng, quy hoạch sử dụng đất an ninh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an gửi văn bản lấy ý kiến của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có đất. Trên cơ sở thống nhất của ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có đất, cơ quan, người có thẩm quyền thực hiện việc thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất theo quy định của pháp luật. Trường hợp ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có đất không thống nhất thì Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Đối với những dự án đã được chấp thuận, quyết định chủ trương đầu tư hoặc quyết định đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư công, pháp luật về đầu tư theo phương thức đối tác công tư và pháp luật về đầu tư phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt trước ngày Luật Đất đai năm 2024 có hiệu lực thi hành mà phải thu hồi đất quốc phòng, đất an ninh, tài sản gắn liền với đất để chuyển giao cho địa phương thực hiện dự án phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng nhưng diện tích đất dự kiến thu hồi chưa được xác định trong quy hoạch sử dụng đất quốc phòng, quy hoạch sử dụng đất an ninh là đất chuyển giao cho địa phương thì ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có đất thu hồi lấy ý kiến Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đối với đất quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an đối với đất an ninh. Trên cơ sở thống nhất của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an thì cơ quan, người có thẩm quyền thực hiện việc thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất theo quy định của pháp luật. Trường hợp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an không thống nhất thì ủy ban nhân dân cấp tỉnh báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có đất thu hồi chịu trách nhiệm về tính chính xác của thông tin đảm bảo có trong quy hoạch sử dụng đất được duyệt trước ngày 01/8/2024.
Trường hợp phải thu hồi đất quốc phòng, đất an ninh, tài sản gắn liền với đất để chuyển giao cho địa phương thực hiện dự án phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng nhưng diện tích đất dự kiến thu hồi chưa được xác định trong quy hoạch sử dụng đất quốc phòng, quy hoạch sử dụng đất an ninh là đất chuyển giao cho địa phương thì ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có đất thu hồi, lấy ý kiến của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đối với đất quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an đối với đất an ninh. Trên cơ sở thống nhất của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an thì cơ quan, người có thẩm quyền thực hiện việc thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất theo quy định của pháp luật. Trường hợp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an không thống nhất thì ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có đất báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
7. Một số quy định mới của Đảng
7.1. Tiêu chuẩn chức danh cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý và khung tiêu chuẩn chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp (theo Quy định số 365-QĐ/TW ngày 30/8/2025 của Bộ Chính trị)
Quy định số 365-QĐ/TW nêu cụ thể tiêu chuẩn chức danh cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý và khung tiêu chuẩn chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp trong hệ thống chính trị. Quy định này áp dụng đối với cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị và cá nhân có thẩm quyền trong công tác cán bộ. Đồng thời, áp dụng đối với cán bộ được xem xét quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, điều động, bố trí, luân chuyển, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử vào các chức danh lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị ở Trung ương và địa phương.
Quy định này là cơ sở để xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược có đủ đức, đủ tài, đủ tâm, đủ tầm, đủ sức, đủ nhiệt huyết cách mạng, đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới. Các tiêu chuẩn chức danh cán bộ có quan hệ mật thiết với nhau. Coi trọng cả "đức" và "tài", lấy phẩm chất đạo đức, lối sống làm gốc, năng lực, hiệu quả công tác là thước đo để lựa chọn cán bộ.
Tiêu chuẩn chung đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp gồm: chính trị, tư tưởng; phẩm chất đạo đức, lối sống và ý thức tổ chức kỷ luật; trình độ, năng lực; uy tín và khả năng quy tụ, đoàn kết; kết quả công tác; về sức khoẻ, độ tuổi và kinh nghiệm. Quy định cũng nêu rõ tiêu chuẩn chức danh đối với cán bộ thuộc diện trung ương quản lý, trong đó yêu cầu ngoài bảo đảm đầy đủ tiêu chuẩn chung thì đồng thời cũng phải đáp ứng các tiêu chuẩn của mỗi chức danh.
Ủy viên Trung ương Đảng phải là cán bộ tiêu biểu của Đảng về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, tính tiền phong, gương mẫu, tính xây dựng, tính chiến đấu, tính hành động, tính kỷ luật, tính nhân văn, năng lực, uy tín về mọi mặt. Những người này cũng phải là những cán bộ được đào tạo cơ bản, có kiến thức toàn diện, được rèn luyện, thử thách qua thực tiễn, có tư duy đổi mới, tầm nhìn chiến lược, tâm huyết, trách nhiệm, tích cực tham gia thảo luận, đóng góp, hoạch định đường lối, chính sách và sự lãnh đạo tập thể của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Có thành tích nổi trội, có kết quả, "sản phẩm" cụ thể trong quá trình công tác; có khả năng quy tụ, đoàn kết, thống nhất và huy động sức mạnh tổng hợp, tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách, nhiệm vụ của Đảng, chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn mới ở lĩnh vực, địa bàn công tác được phân công quản lý, phụ trách. Có năng lực dự báo, xử lý, ứng phó kịp thời, hiệu quả những tình huống đột xuất, bất ngờ; có khả năng làm việc độc lập. Có tố chất, năng lực lãnh đạo, quản lý cấp chiến lược; có hoài bão, khát vọng đổi mới vì nước, vì dân. Kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, quan liêu, lợi ích nhóm. Là những người đã kinh qua và hoàn thành tốt nhiệm vụ ở các chức vụ lãnh đạo chủ chốt cấp dưới trực tiếp và tương đương.
Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng là những cán bộ trẻ; cơ bản đáp ứng được tiêu chuẩn của Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Quyết liệt, hiệu quả trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; hiểu biết tình hình trong nước, khu vực và thế giới; có khả năng tham gia, đóng góp ý kiến và đề xuất những vấn đề thực tiễn đặt ra để Ban Chấp hành Trung ương Đảng thảo luận, quyết định. Những cán bộ ở vị trí này cũng phải qua thực tiễn công tác thể hiện có năng lực, tố chất lãnh đạo, quản trị, quản lý, hoàn thành tốt nhiệm vụ ở chức vụ đã kinh qua, có triển vọng phát triển và có khả năng đáp ứng ngay khi có yêu cầu phân công, bố trí đảm nhiệm chức danh lãnh đạo các địa phương, cơ quan, đơn vị có cơ cấu Ủy viên Trung ương Đảng.
Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư phải bảo đảm đầy đủ các tiêu chuẩn của Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng; đồng thời cần có thêm các tiêu chuẩn như thật sự tiêu biểu, mẫu mực của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trí tuệ, ý chí chiến đấu, năng lực lãnh đạo, quản lý, quản trị, ý thức tổ chức kỷ luật; không bị chi phối bởi sự can thiệp, sức ép bên ngoài và lợi ích nhóm. Nhân sự phải quyết đoán, quyết liệt, hiệu quả trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; hiểu biết sâu rộng tình hình đất nước, khu vực và thế giới; nhạy cảm về chính trị, nhạy bén về kinh tế, am hiểu sâu sắc về xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại; có ý thức trách nhiệm cao, có khả năng xây dựng chiến lược phát triển dài hạn cho đất nước, đóng góp ý kiến trong việc hoạch định đường lối, chính sách và phát hiện, đề xuất những vấn đề thực tiễn đặt ra để Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư thảo luận, quyết định; có tâm, có tầm và trách nhiệm trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ, bảo đảm sự kế thừa, phát triển, chuyển tiếp vững vàng giữa các thế hệ cán bộ. Những cán bộ này phải là Ủy viên chính thức Trung ương Đảng trọn một nhiệm kỳ trở lên; đã kinh qua và hoàn thành tốt nhiệm vụ ở các chức vụ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh (bí thư; chủ tịch HĐND, chủ tịch UBND) hoặc trưởng các ban, bộ, ngành, MTTQ, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương và tương đương. Trường hợp Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư công tác trong quân đội thì phải kinh qua chức vụ chủ trì cấp quân khu. Trường hợp đặc biệt do Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định.
Quy định này thay thế Quy định 89-QĐ/TW, ngày 04/8/2017 của Bộ Chính trị về khung tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp và Quy định 214-QĐ/TW, ngày 02/01/2020 của Bộ Chính trị về khung tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý.
7.2. Về việc kiểm điểm và đánh giá, xếp loại chất lượng đối với tập thể, cá nhân trong hệ thống chính trị (theo Quy định số 366-QĐ/TW, ngày 30/8/2025 của Bộ Chính trị)
Quy định này thay thế Quy định số 124-QĐ/TW, ngày 04/10/2023 của Bộ Chính trị về kiểm điểm và đánh giá, xếp loại chất lượng hằng năm đối với các tập thể, cá nhân trong hệ thống chính trị; có hiệu lực từ ngày 30/8/2025; áp dụng đối với cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo, quản lý, tổ chức, cơ quan, đơn vị (gọi tắt là tập thể) và cá nhân trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở.
Quy định ban hành nhằm mục đích bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ về kiểm điểm, đánh giá, xếp loại chất lượng đối với tập thể, cá nhân trong hệ thống chính trị. Nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình, tự soi, tự sửa, thấy được ưu điểm để phát huy, hạn chế, khuyết điểm để khắc phục; chủ động phát hiện, ngăn chặn biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Xây dựng tiêu chí để đánh giá tập thể, cá nhân trong hệ thống chính trị nhằm xác định mức độ hoàn thành nhiệm vụ làm căn cứ để bổ nhiệm, quy hoạch, sử dụng, đãi ngộ, khen thưởng, sàng lọc, thay thế, kỷ luật, tạm đình chỉ công tác, cho thôi giữ chức vụ, từ chức, miễn nhiệm đối với cán bộ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, năng lực hạn chế, không hoàn thành nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, sáng tạo phục vụ người dân, doanh nghiệp, đóng góp vào sự phát triển đất nước trong giai đoạn mới.
Việc kiểm điểm và đánh giá, xếp loại chất lượng đối với tập thể, cá nhân trong hệ thống chính trị cần bảo đảm các yêu cầu sau: Thống nhất về nguyên tắc, khung tiêu chí, phương pháp, thẩm quyền, quy trình, thủ tục đánh giá tập thể, cá nhân trong hệ thống chính trị theo phân cấp, bảo đảm đồng bộ, thống nhất từ Trung ương đến cơ sở. Đánh giá phải dựa trên hiệu quả công việc, kết quả thực hiện nhiệm vụ, sản phẩm cụ thể gắn với vị trí việc làm, chức trách, nhiệm vụ theo số lượng, tiến độ, chất lượng. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của tập thể, nhất là người đứng đầu và từng cán bộ, đảng viên; bảo đảm công tác kiểm điểm, đánh giá, xếp loại phải dân chủ, công tâm, khách quan, khoa học, đúng thực chất, chống hình thức. Đồng bộ với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và cải cách hành chính nhà nước, nhất là trong bối cảnh thực hiện chuyển đổi số.
Các nguyên tắc trong quá trình thực hiện: Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng; thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ; kiểm điểm tự phê bình và phê bình nghiêm túc, cầu thị, trên tinh thần xây dựng, giữ vững sự đoàn kết, thống nhất, đúng thẩm quyền, trách nhiệm. Thực hiện đánh giá theo hướng xuyên suốt, liên tục, đa chiều, có tiêu chí và thông qua sản phẩm cụ thể; kết hợp giữa tiêu chí định tính với tiêu chí định lượng, trong đó, đặc biệt chú trọng các tiêu chí định lượng về kết quả, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ; xếp loại phản ánh đúng thực chất mức độ hoàn thành nhiệm vụ, được kiểm chứng, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao. Việc kiểm điểm tập thể, cá nhân được thực hiện định kỳ hằng năm hoặc khi có yêu cầu. Việc đánh giá được thực hiện thường xuyên, liên tục trên cơ sở kế hoạch, chương trình công tác, nhiệm vụ được giao và làm căn cứ để đánh giá, xếp loại cả năm, nhiệm kỳ. Lấy kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị làm trọng tâm, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống làm nền tảng, phương pháp, năng lực quản lý, điều hành làm cơ sở quyết định kết quả đánh giá. Gắn trách nhiệm cá nhân với tập thể; gắn kết quả của người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo, quản lý với kết quả của địa phương, tổ chức, cơ quan, đơn vị. Tăng cường kiểm tra, giám sát, bảo đảm thực hiện thống nhất, đồng bộ trong toàn hệ thống chính trị.
Bộ Chính trị quy định khung, mang tính nguyên tắc, chỉ đạo định hướng để các cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức, cơ quan, đơn vị có trách nhiệm tiếp tục cụ thể hóa, nhất là nội dung kiểm điểm, xây dựng bộ tiêu chí đánh giá phù hợp với đặc điểm ngành, lĩnh vực, chức trách, nhiệm vụ theo phân cấp quản lý, bảo đảm thống nhất, đồng bộ theo yêu cầu tại Điều 6, Điều 10 và Điều 18 Quy định này. Thực hiện thống nhất việc tập thể, cá nhân được kiểm điểm thì phải đánh giá, xếp loại. Kết quả đánh giá, xếp loại cán bộ, công chức, viên chức, người lao động là cơ sở để đánh giá, xếp loại chất lượng đảng viên. Đánh giá, xếp loại chất lượng đảng viên theo kết quả thực hiện nhiệm vụ tại chi bộ; đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ, công chức, viên chức ở nơi giữ chức vụ cao nhất; đánh giá, xếp loại tổ chức đảng, tổ chức, cơ quan, đơn vị trên cơ sở kết quả đánh giá cấp uỷ, tập thể lãnh đạo, quản lý và cán bộ, đảng viên thuộc thẩm quyền quản lý.
Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, đề cao trách nhiệm của người đứng đầu trong việc xây dựng kế hoạch công tác, phân công nhiệm vụ phù hợp với từng đối tượng tập thể, cá nhân gắn với mục tiêu, sản phẩm công việc; cấp nào trực tiếp quản lý, phân công công việc thì cấp đó đánh giá, xếp loại; bảo đảm liên thông, thống nhất trong công tác cán bộ; lấy kết quả đánh giá làm căn cứ để sàng lọc, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng, bổ nhiệm cán bộ; đồng thời, làm căn cứ để thay thế, tạm đình chỉ công tác, cho thôi giữ chức vụ, từ chức, miễn nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý; có biện pháp quản lý, sử dụng cán bộ, công chức, viên chức, người lao động phù hợp với mức độ hoàn thành nhiệm vụ hoặc cho thôi việc khi không đáp ứng yêu cầu. Đề cao trách nhiệm của cấp ủy, tập thể lãnh đạo, nhất là người đứng đầu, trong đánh giá cán bộ thuộc quyền quản lý theo phân cấp.
Ban hành kèm theo Quy định số 366-QĐ/TW là 05 bản phụ lục quy định về: Khung tiêu chí đánh giá đối với tập thể; Khung tiêu chí đánh giá đối với cá nhân cán bộ lãnh đạo, quản lý thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý; Khung tiêu chí đánh giá đối với cá nhân giữ chức lãnh đạo, quản lý; Khung tiêu chí đánh giá đối với cá nhân không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý; Khung tiêu chí đánh giá đối với đảng viên không làm việc trong hệ thống chính trị.
7.3. Danh mục vị trí chức danh, nhóm chức danh, chức vụ lãnh đạo của hệ thống chính trị (theo Quy định số 368-QĐ/TW, ngày 08/9/2025 của Bộ Chính trị)
Quy định số 368-QĐ/TW có hiệu lực từ ngày 08/9/2025, thay thế Kết luận số 35-KL/TW ngày 05/5/2022 của Bộ Chính trị về danh mục chức danh, chức vụ lãnh đạo và tương đương của hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở. Quy định này quy định về phạm vi, đối tượng, mục đích, yêu cầu, quan điểm, nguyên tắc và nội dung ban hành Danh mục vị trí chức danh, nhóm chức danh, chức vụ lãnh đạo của hệ thống chính trị; áp dụng đối với các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị và cán bộ, công chức, viên chức lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị.
Quy định số 368-QĐ/TW được ban hành nhằm xác định vị trí chức danh, nhóm chức danh, chức vụ lãnh đạo của hệ thống chính trị, là cơ sở để thực hiện đồng bộ, thống nhất công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ; là căn cứ quan trọng để xem xét việc xếp lương và phụ cấp đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị. Làm cơ sở để các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị trực thuộc Trung ương cụ thể hóa, xây dựng danh mục vị trí chức danh, nhóm chức danh, chức vụ lãnh đạo thuộc thẩm quyền quản lý. Bảo đảm yêu cầu xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả; sự thống nhất, tổng thể, đồng bộ, liên thông giữa các chức danh, chức vụ trong hệ thống chính trị; phù hợp tiêu chuẩn chức danh, chức vụ, vị trí việc làm của từng cơ quan, địa phương, đơn vị. Xác định chức từng địa phương, cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị. Bảo đảm tính khoa học, thực tiễn, công bằng, minh bạch, khách quan, dễ thực hiện và sự kế thừa ổn định; tiến hành thận trọng, kỹ lưỡng. Xem xét, điều chỉnh một số chức danh, chức vụ chưa hợp lý. Khắc phục những hạn chế, bất cập trong công tác cán bộ. Bảo đảm thực hiện nghiêm các chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể quyết định; phát huy đầy đủ trách nhiệm cá nhân, trước hết là người đứng đầu trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ.
Việc sắp xếp các chức danh, chức vụ lãnh đạo phải theo nguyên tắc cấp trưởng, cấp trên trực tiếp xếp theo nhóm, bậc chức vụ nào thì cấp phó, cấp dưới trực tiếp xếp theo nhóm, bậc tương ứng. Chỉ xem xét, sắp xếp đưa vào Danh mục các chức danh, chức vụ lãnh đạo chuyên trách, không sắp xếp các chức danh kiêm nhiệm. Một người đảm nhiệm nhiều chức vụ thì lấy chức vụ cao nhất để xác định vị trí công tác. Chức danh, chức vụ được xác định là tương đương khi được xếp cùng nhóm, cùng bậc, cùng hệ số phụ cấp, cùng đối tượng quản lý. Đối với các chức danh, chức vụ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý thì ngoài Quy định này còn thực hiện theo các quy định khác của Trung ương. Trường hợp đặc biệt do cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
Ban hành kèm theo Quyết định là Danh mục vị trí chức danh, nhóm chức danh, chức vụ lãnh đạo của hệ thống chính trị, gồm các nhóm: Nhóm I: Các chức danh lãnh đạo chủ chốt và lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước. Nhóm II: Các chức danh, chức vụ lãnh đạo thuộc diện Bộ Chính trị quản lý. Nhóm III: Các chức danh, chức vụ lãnh đạo thuộc diện Ban Bí thư quản lý. Nhóm IV: Khung chức danh, chức vụ lãnh đạo thuộc diện cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị quản lý.
8. Đẩy mạnh phát triển nền y học cổ truyền Việt Nam trong giai đoạn mới
Thời gian qua, y học cổ truyền Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng đáng khích lệ. Để phát huy hơn nữa vị thế, vai trò của nền y học cổ truyền Việt Nam trong chăm sóc sức khỏe Nhân dân gắn với phát triển kinh tế - xã hội, kịp thời khắc phục những tồn tại, hạn chế, bất cập, tại Chỉ thị số 25/CT-TTg ngày 15/9/2025, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu:
Rà soát, nghiên cứu hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách phù hợp với đặc thù của y học cổ truyền nhằm thúc đẩy y học cổ truyền phát triển đúng với tiềm năng vốn có, tăng cường kết hợp y học cổ truyền và y học hiện đại; nghiên cứu mở rộng phạm vi sử dụng, thanh toán bảo hiểm y tế đối với các loại thuốc cổ truyền, thuốc dược liệu, dược liệu, dịch vụ khám, chữa bệnh bằng y học cổ truyền; đề xuất xây dựng Luật về y học cổ truyền. Hoàn thiện tiêu chuẩn, chức danh nghề nghiệp trong lĩnh vực y học cổ truyền; nghiên cứu, đề xuất đầu tư xây dựng mới, nâng cấp, mở rộng quy mô các cơ sở khám chữa bệnh y học cổ truyền phù hợp với quy hoạch mạng lưới cơ sở y tế và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội các địa phương; chú trọng lựa chọn thứ tự ưu tiên đầu tư và ưu tiên bố trí nguồn đầu tư công để đầu tư đối với một số cơ sở đang có yêu cầu cấp bách. Nghiên cứu, đề xuất các nhiệm vụ khoa học công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước để tập trung nghiên cứu một số bài thuốc, nghiên cứu phát triển các sản phẩm từ dược liệu, thuốc cổ truyền,...
Nghiên cứu, đề xuất, tổ chức thực hiện các chính sách, cơ chế phù hợp về nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực y học cổ truyền theo yêu cầu của Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22/12/ 2024 của Bộ Chính trị, phù hợp với quy định của pháp luật về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo; nghiên cứu đề xuất cơ chế phù hợp để chi ngân sách, đầu tư cho hoạt động nghiên cứu lâm sàng, nghiên cứu dinh dưỡng trong y học cổ truyền nhằm hỗ trợ hiệu quả công tác phòng bệnh, điều trị và phục hồi sức khỏe. Ban hành bản đồ quy hoạch vùng trồng dược liệu cấp quốc gia và địa phương; bảo tồn nguồn dược liệu quý hiếm, đặc hữu; chuẩn hóa các quy trình nuôi trồng, thu hái, bảo quản, chế biến dược liệu đảm bảo chất lượng và an toàn, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế, gắn với việc thiết lập hệ thống truy xuất nguồn gốc bằng công nghệ số nhằm kiểm soát chất lượng, minh bạch hóa chuỗi cung ứng và phục vụ mục tiêu xuất khẩu.
Đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực y học cổ truyền, nhất là nguồn nhân lực chuyên sâu, chất lượng cao, tạo điều kiện cho đội ngũ y, bác sỹ y học cổ truyền tiếp cận với các kỹ thuật hiện đại để tăng chất lượng kết hợp y học cổ truyền và y học hiện đại. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số thuộc lĩnh vực y học cổ truyền, tập trung số hóa các tài liệu, tư liệu quý về y học cổ truyền, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về vùng dược liệu, các vị thuốc, cây thuốc, bài thuốc, thầy thuốc tiêu biểu, công trình khoa học để dễ dàng bảo tồn và tra cứu; chỉ đạo các địa phương, đơn vị đẩy mạnh chia sẻ thông tin về y học cổ truyền tại địa phương, đơn vị.
Đẩy mạnh, tăng cường, nâng cao hiệu quả các hoạt động hợp tác quốc tế trong các diễn đàn, khuôn khổ song phương, đa phương, tập trung các lĩnh vực mà Việt Nam có thế mạnh và đang có nhu cầu (giao lưu học thuật, trao đổi kinh nghiệm, hợp tác nghiên cứu khoa học, đào tạo và trao đổi nhân lực, thu hút đầu tư nước ngoài,...). Triển khai các điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế, kế hoạch thuộc lĩnh vực y học cổ truyền đã ký kết; xây dựng, tổ chức thực hiện các Chương trình, kế hoạch, dự án hợp tác quốc tế về y học cổ truyền; tổ chức quảng bá, giới thiệu hình ảnh, thương hiệu, giá trị văn hóa của y học cổ truyền Việt Nam trên thế giới.
Cân đối, bố trí nguồn ngân sách để thực hiện, báo cáo cấp có thẩm quyền quyết định theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước, pháp luật về đầu tư công, phù hợp với khả năng cân đối của ngân sách nhà nước; bố trí kinh phí để triển khai các nhiệm vụ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo đã được phê duyệt theo quy định, lưu ý xử lý kịp thời các vấn đề đặc thù của y học cổ truyền; thực hiện chính sách về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với các bài thuốc, phương pháp khám chữa bệnh bằng y học cổ truyền.
Tổ chức thực hiện hiệu quả hoạt động cho thuê môi trường rừng để phát triển dược liệu; bảo vệ, khai thác, chia sẻ lợi ích từ nguồn gen dược liệu; phát triển nguồn dược liệu trong nước, bảo tồn nguồn dược liệu quý hiếm, tổ chức khai thác nguồn tài nguyên dược liệu theo hướng khoa học và bền vững; chuẩn hóa các quy trình nuôi trồng, thu hái, bảo quản, chế biến dược liệu nhằm đảm bảo chất lượng và an toàn khi sử dụng; hỗ trợ kết nối hoạt động nuôi trồng, chế biến, thương mại các sản phẩm dược liệu, từ dược liệu theo mô hình OCOP; lồng ghép nội dung phát triển mạng lưới cơ sở y học cổ truyền vào các quy hoạch xây dựng đô thị, khu du lịch, sinh thái và nông thôn, bảo đảm đồng bộ về hạ tầng; quản lý chặt chẽ, hiệu quả hoạt động quảng cáo về y học cổ truyền. Thực hiện có hiệu quả dự án phát triển dược liệu trong Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Ưu tiên bố trí ngân sách địa phương để thực hiện công tác phát triển y học cổ truyền; ban hành chính sách, cơ chế ưu đãi theo thẩm quyền nhằm thúc đẩy, khuyến khích, thu hút đầu tư của xã hội phát triển y học cổ truyền trên địa bàn; đầu tư, nâng cấp bệnh viện y học cổ truyền theo hướng hiện đại hóa, phấn đấu mỗi tỉnh có ít nhất 01 bệnh viện với cơ sở hạ tầng, thiết bị hiện đại để thực hiện có hiệu quả công tác kết hợp y học cổ truyền với y học hiện đại trong khám và điều trị; lồng ghép công tác phát triển y học cổ truyền vào trong các chương trình, dự án phát triển y tế dự phòng và y tế cơ sở tại địa phương. Tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động nuôi trồng, sản xuất, kinh doanh dược liệu, thuốc cổ truyền và cung ứng dịch vụ khám, chữa bệnh bằng y học cổ truyền.
Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương