Thông tin trong nước (số tháng 12 năm 2025)
- Thứ tư - 26/11/2025 15:44
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu bế mạc Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII. Ảnh: TL
1. Một số kết quả nổi bật của Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII
Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII diễn ta từ ngày 05-06/11/2025, tại Thủ đô Hà Nội. Sau 02 ngày làm việc, Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định nhiều nội dung quan trọng, trong đó có một số nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất: Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận dân chủ, kỹ lưỡng với sự nhất trí cao nhân sự giới thiệu tham gia Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa XIV. Ban Chấp hành Trung ương giao Bộ Chính trị và Tiểu ban nhân sự Đại hội XIV tiếp tục xem xét bổ sung, hoàn thiện các phương án nhân sự theo đúng phương hướng công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV và quy trình công tác nhân sự đã đề ra để báo cáo Ban Chấp hành Trung ương xem xét quyết định tại Hội nghị Trung ương 15 sắp tới.
Trung ương thống nhất cao với các nội dung dự kiến Chương trình Đại hội, quy chế làm việc, quy chế bầu cử tại Đại hội và báo cáo về tình hình công tác chuẩn bị Đại hội XIV. Ban Chấp hành Trung ương giao Bộ Chính trị tiếp thu ý kiến của Trung ương, tiếp tục hoàn thiện các dự thảo để trình Đại hội XIV xem xét quyết định.
Thứ hai: Ban Chấp hành Trung ương đã xem xét, cho ý kiến về báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII; báo cáo tình hình thực hiện Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa XIII; Báo cáo tổng kết thực hiện Quy chế làm việc của Ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa XIII; Báo cáo những công việc quan trọng Bộ Chính trị đã giải quyết từ sau Hội nghị Trung ương 13 đến Hội nghị Trung ương 14. Ban Chấp hành Trung ương giao Bộ Chính trị nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của Trung ương, tiếp tục hoàn chỉnh các báo cáo tổng kết và bàn giao cho Ban Chấp hành Trung ương và Ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa XIV xem xét, quyết định sửa đổi, bổ sung Quy chế làm việc của khóa tới.
Thứ ba: Ban Chấp hành Trung ương giao Bộ Chính trị chỉ đạo Tiểu ban văn kiện và các cơ quan liên quan tiếp thu ý kiến đóng góp của các tổ chức chính trị và nhân dân để hoàn thiện thêm một bước Dự thảo các văn kiện. Khẩn trương, nghiêm túc tổng hợp tiếp thu, giải trình các ý kiến đóng góp để hoàn thiện các Dự thảo văn kiện trình Hội nghị Trung ương 15 xem xét hoàn chỉnh để trình Đại hội XIV của Đảng.
Thứ tư: Hội nghị Trung ương lần thứ 14 nhất trí cao với kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa XIII.
Thứ năm: Điểm sáng nhất, đột phá nhất trong triển khai thực hiện Nghị quyết 18-NQ/TW là tổ chức thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp và tổ chức lại địa giới hành chính cấp Tỉnh và cấp Xã, tạo không gian, tiềm năng và cơ hội phát triển cho đất nước trong kỷ nguyên mới.
Mô hình chính quyền 03 cấp đã vận hành được 04 tháng, kết quả ban đầu là khả quan, tăng tính kiến tạo, tăng hiệu lực, hiệu quả phục vụ nhân dân và phát triển kinh tế xã hội; quần chúng nhân dân ủng hộ và tin tưởng, người dân và doanh nghiệp bước đầu thấy được cơ hội, quyền lợi và nghĩa vụ công dân đến với mình thực chất hơn; nhịp sống xã hội rộn ràng, tươi vui hơn. Để phát huy những yếu tố tích cực đó, tôi đề nghị cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp, đặc biệt là các đồng chí Ủy viên Trung ương cần đặc biệt quan tâm hơn nữa đến nhiệm vụ hỗ trợ, tạo điều kiện để mô hình chính quyền 03 cấp, đặc biệt quan tâm tới 02 cấp chính quyền địa phương, hoạt động thực sự hiệu lực, hiệu quả, vươn tới những mục tiêu mà Đảng đã đặt ra, trong đó 03 mục tiêu trọng yếu là giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phát triển nhanh và bền vững; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho Nhân dân.
Phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 14, đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm yêu cầu trong thời gian tới, cần tập trung xử lý những trọng tâm sau: Cả hệ thống chính trị tiếp tục chăm lo, kiến tạo cho mô hình chính quyền địa phương hai cấp hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Phân định thẩm quyền liên thông giữa 03 cấp cho từng lĩnh vực, xóa chồng lấn, không bỏ trống nhiệm vụ. Phân cấp đi kèm kiểm soát, chuyển mạnh sang hậu kiểm, tổ chức kiểm toán nội bộ ở tỉnh/xã. Tài chính công được phân bổ theo kết quả, theo đặc điểm riêng của địa phương. Sớm xác định vị trí việc làm, khoán sản phẩm, đào tạo bắt buộc về chuyên môn, nghiệp vụ, quản trị dữ liệu. Tổ chức một cửa liên thông số, xóa cơ chế “xin - cho”, tăng trách nhiệm người đứng đầu. Xây dựng dữ liệu dùng chung, kết nối dân cư - đất đai - an sinh - doanh nghiệp, cập nhật thời gian thực từ cơ sở tới Trung ương.
Tổng Bí thư lưu ý, nguyên tắc xuyên suốt là “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm” và “rõ người - rõ việc - rõ thời hạn - rõ nguồn lực - rõ trách nhiệm”, “Trung ương làm gương, địa phương hưởng ứng”, “Vì Nhân dân phục vụ”, “Kết quả, sản phẩm công việc là thước đo cao nhất trình độ và phẩm chất cán bộ”.
Tổng Bí thư đề nghị các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng hãy nêu cao hơn nữa tinh thần trách nhiệm trước đất nước và nhân dân, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt những công việc của đơn vị, địa phương mình, đảm bảo hoàn thành các chỉ tiêu được nêu ra trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết của cấp ủy các cấp; khẩn trương tổ chức thực hiện các kết luận của Hội nghị Trung ương lần thứ 14 để góp phần cho thành công của Đại hội XIV của Đảng…
2. Công tác đại hội đảng bộ trực thuộc Trung ương và nhiệm vụ thời gian tới
Ngày 31/10/2025, Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành Kết luận số 201- KL/TW về tình hình, kết quả công tác đại hội đảng bộ trực thuộc Trung ương nhiệm kỳ 2025-2030 và một số nhiệm vụ thời gian tới. Bộ Chính trị, Ban Bí thư yêu cầu triển khai một số nhiệm vụ sau:
Các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương triển khai ngay các công việc sau đại hội và chuẩn bị thật tốt cho Đại hội XIV của Đảng, tập trung vào các nhiệm vụ sau: Khẩn trương hoàn thiện và ban hành ngay các quy chế làm việc, chương trình làm việc toàn khóa, chương trình hành động thực hiện nghị quyết đại hội; kiện toàn, phân công các đồng chí ủy viên ban chấp hành, ban thường vụ, phó bí thư, bí thư và kiện toàn các chức danh lãnh đạo hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, sở, ngành theo phương án nhân sự, bảo đảm dân chủ, khách quan, đúng quy trình, tạo sự đồng thuận và phát huy tinh thần đoàn kết, đổi mới, sáng tạo, đẩy mạnh phong trào thi đua, tạo khí thế mới, niềm tin mới trong tổ chức hành động; đồng thời quán triệt, triển khai đến cấp cơ sở, đưa ngay nghị quyết đại hội vào cuộc sống, trước mắt tập trung thực hiện đạt và vượt mức các nhiệm vụ năm 2025 đã đề ra.
Hoàn thiện đồng bộ thể chế liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của các cơ quan, đơn vị, tổ chức trong hệ thống chính trị để phát triển nhanh và bền vững đất nước. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với cải cách thủ tục hành chính bảo đảm hiệu quả, phù hợp với chính quyền địa phương 02 cấp. Triển khai thực hiện nghiêm các quy định mới về công tác cán bộ, đặc biệt là công tác đánh giá cán bộ bảo đảm dân chủ, công khai, công tâm, khách quan theo hướng xuyên suốt, liên tục, đa chiều, có tiêu chí gắn với hiệu quả, kết quả thực hiện nhiệm vụ, thông qua sản phẩm cụ thể.
Tiếp tục triển khai chủ trương bố trí 100% các chức danh chủ tịch ủy ban nhân dân, chủ nhiệm ủy ban kiểm tra, chánh thanh tra tỉnh không phải là người địa phương, hoàn thành trước ngày 15/12/2025.
Tăng cường công tác tuyên truyền, định hướng dư luận; bảo vệ chính trị nội bộ, bảo vệ bí mật nhà nước; bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh vô hiệu hóa các âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước; phản bác các quan điểm sai trái, thông tin xuyên tạc, xấu độc, nhất là trên không gian mạng liên quan đến công tác chuẩn bị đại hội; xử lý nghiêm các vi phạm.
Tập trung chuẩn bị tốt các công việc tổ chức Đại hội XIV của Đảng. Thường trực các tiểu ban nghiên cứu tiếp thu ý kiến tham gia góp ý từ đại hội đảng các cấp; ý kiến đại biểu Quốc hội và các tầng lớp nhân dân, trí thức, nhà khoa học,... để hoàn thiện Dự thảo Văn kiện trình Hội nghị Trung ương 15. Tiếp tục chuẩn bị các nội dung về nhân sự và các điều kiện cần thiết để tổ chức thành công Đại hội XIV của Đảng.
Tổ chức tốt việc tổng kết công tác năm 2025 và triển khai nhiệm vụ năm 2026. Chuẩn bị sớm các công việc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XVI và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026-2031.
3. Thi đua lập thành tích chào mừng Đại hội lần thứ XIV của Đảng
Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Chỉ thị số 45-CT/TW, ngày 14/4/2025 của Bộ Chính trị về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, ngày 05/10/2025, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương đã phát động Đợt thi đua lập thành tích chào mừng Đại hội lần thứ XIV của Đảng; tăng tốc, bứt phá hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng; ban hành Kế hoạch số 2437/QĐ-TTg, ngày 04/11/2025 với các nội dung thi đua và lộ trình thực hiện, tiêu chí khen thưởng như sau:
Để toàn dân đồng lòng, thi đua hành động, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ, hướng tới Đại hội XIV của Đảng thành công, các bộ, ban, ngành, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây viết tắt là bộ, ngành, địa phương), tổ chức, doanh nghiệp và mọi người dân triển khai Đợt thi đua với tinh thần “quyết tâm cao, hành động quyết liệt, hiệu quả thiết thực”, tập trung thi đua thực hiện các nội dung chủ yếu sau:
Thi đua thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2025 và Kế hoạch 5 năm (2021-2025) theo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, các đề án, chương trình được Chính phủ giao theo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và các Nghị quyết của Quốc hội.
Thi đua thực hiện tốt công tác chuẩn bị và tổ chức thành công Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng bảo đảm đúng quy định.
Thi đua xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh, đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, thực hiện tốt công tác cán bộ, chống chủ nghĩa cá nhân, tiêu cực, tăng cường phối hợp giữa các cấp chính quyền với Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội.
Thi đua đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện đồng bộ về thể chế phát triển nhanh, bền vững đất nước, phát huy mọi động lực, đột phá mạnh mẽ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, thu hút, trọng dụng nhân tài, đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất mới.
Thi đua hoàn thành, hoàn thành vượt mức các công trình phát triển kết cấu hạ tầng, kinh tế vùng, kinh tế biển, lấy các đô thị làm động lực phát triển vùng và đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới.
Đợt thi đua được triển khai từ tháng 10/2025 đến khi tổ chức thành công Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.
Tiêu chí thi đua đối với các bộ, ban, ngành trung ương: Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao; đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển nhanh, bền vững đất nước, tháo gỡ kịp thời dứt điểm các điểm nghẽn, nút thắt, khơi thông và giải phóng sức sản xuất, mọi nguồn lực, đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất mới. Đẩy mạnh cải cách hành chính, chuyển đổi số; lao động sáng tạo, hoàn thành đúng tiến độ hoặc vượt kế hoạch, đảm bảo chất lượng các công trình, dự án, nhất là các dự án quan trọng quốc gia, các dự án có sức ảnh hưởng, hạ tầng số, các công trình an sinh xã hội ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn để tạo sự đột phá, đảm bảo quốc phòng, an ninh.
Đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương: Hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2025, bảo đảm ổn định chính trị, giữ vững quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội. Tổ chức tốt công tác tuyên truyền, cổ vũ cho Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. Cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả quản trị, thi đua xây dựng chính quyền điện tử, chính quyền số, tăng cường phục vụ người dân và doanh nghiệp. Xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm người đứng đầu trong điều hành, tổ chức thực hiện, làm tốt công tác dân vận, đối thoại với nhân dân, giải quyết hiệu quả đơn thư, khiếu nại, tố cáo.
Đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội: Tổ chức sâu rộng các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động đến đông đảo các tầng lớp nhân dân, phát huy tinh thần thi đua sáng tạo, vận động mọi nguồn lực xã hội tạo nên sức mạnh góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Phát huy mạnh mẽ vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc thực hành dân chủ và phát huy quyền dân chủ của Nhân dân trong đời sống xã hội. Thực hiện tốt chức năng giám sát và phản biện xã hội, đặc biệt là giám sát quá trình vận hành bộ máy chính quyền theo mô hình chính quyền địa phương hai cấp; giám sát thực hiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
Đối với các doanh nghiệp: Sản xuất kinh doanh hiệu quả, bền vững, hợp pháp. Giải quyết nhiều việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động, đồng hành cùng đất nước thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, thi đua lập thành tích chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. Có nhiều sáng chế, phát minh, sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, biện pháp hợp lý hóa sản xuất, ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất kinh doanh, sử dụng năng lượng hiệu quả, sản xuất xanh - sạch - tiết kiệm. Nội bộ đoàn kết. Thực hiện tốt trách nhiệm xã hội, tham gia tích cực các hoạt động vì cộng đồng, đóng góp tích cực trong các phong trào thi đua do Thủ tướng Chính phủ phát động và các phong trào thi đua của bộ, ngành, địa phương:
Đối với cá nhân: Cán bộ, công chức, viên chức gương mẫu chấp hành tốt chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, có sáng kiến, giải pháp sáng tạo trong việc xây dựng, ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành, tổ chức thực hiện, kiểm tra, hướng dẫn việc thực hiện cơ chế, chính sách, quy định, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ đã đề ra tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng với phương châm “đổi mới tư duy, quyết tâm hành động, gương mẫu đi đầu, tận tâm cống hiến, kiến tạo phát triển, vì dân phục vụ”. Mọi người dân tiếp tục nêu cao lòng yêu nước, khát vọng cống hiến, đoàn kết một lòng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, ra sức thi đua lao động sản xuất, giữ gìn an ninh, trật tự xã hội và bảo vệ môi trường, bảo vệ độc lập, chủ quyền đất nước.
Hình thức khen thưởng: Huân chương Lao động; Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ; Bằng khen cấp bộ, cấp tỉnh; Giấy khen. Tiêu chuẩn khen thưởng: Căn cứ thành tích trong tổ chức, thực hiện Đợt thi đua, việc xét khen thưởng cho các tập thể, cá nhân tiêu biểu, xuất sắc được thực hiện theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng.
4. Trách nhiệm giải trình của cơ quan, cá nhân trong hoạt động công vụ
Trong thời gian qua, Đảng, Nhà nước đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tạo nhiều chuyển biến tích cực về trách nhiệm giải trình của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động công vụ. Tuy nhiên, nhận thức, trách nhiệm giải trình của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động công vụ còn nhiều hạn chế. Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc thực hiện trách nhiệm giải trình của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động công vụ, ngày 26/10/2025, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 53-CT/TW yêu cầu cấp ủy, tổ chức đảng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả một số nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm sau:
Tăng cường tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm, xây dựng văn hóa giải trình trong hoạt động công vụ. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, địa phương, cơ quan, đơn vị phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện nghiêm các quy định về trách nhiệm giải trình; coi đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng, thường xuyên, là thước đo bản lĩnh, đạo đức, năng lực và tinh thần dám chịu trách nhiệm của cán bộ, đảng viên. Gắn trách nhiệm giải trình với trách nhiệm nêu gương, với tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng, trở thành việc làm thường xuyên, từng bước hình thành văn hóa giải trình trong cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Quy định rõ trách nhiệm giải trình là một tiêu chí để đánh giá cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên hằng năm; kiên quyết đấu tranh, loại bỏ các biểu hiện né tránh, đùn đẩy, giải trình không đầy đủ, không trung thực trong hoạt động công vụ.
Rà soát, hoàn thiện thể chế, pháp luật về thực hiện trách nhiệm giải trình, bảo đảm đồng bộ, thống nhất, khả thi, phù hợp với thực tiễn và tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả. Sửa đổi pháp luật phòng, chống tham nhũng, trong đó quy định rõ các nguyên tắc, đối tượng, nội dung, hình thức, trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân và cơ chế giám sát, xử lý các sai phạm về thực hiện trách nhiệm giải trình trong hoạt động công vụ. Hoàn thiện pháp luật về tư pháp, khiếu nại, tố cáo, tiếp công dân, đất đai, quy hoạch, môi trường, đầu tư, xây dựng, quản lý, sử dụng tài sản công, tài chính công, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin, quyền yêu cầu giải trình của báo chí, người dân, doanh nghiệp; trách nhiệm giải trình của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong hoạt động công vụ.
Xây dựng bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả thực hiện trách nhiệm giải trình cụ thể cho từng ngành, lĩnh vực, gắn với mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp. Rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định về kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, bảo đảm xử lý nghiêm minh, đồng bộ các vi phạm về trách nhiệm giải trình. Nghiên cứu, xây dựng Quy định về thực hiện trách nhiệm giải trình trong Đảng để bảo đảm đồng bộ, thống nhất thực hiện trong cả hệ thống chính trị.
Nâng cao chất lượng, tạo chuyển biến rõ rệt về thực hiện trách nhiệm giải trình, gắn với kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực đối với các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến người dân, doanh nghiệp, những lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, nhất là tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình trong công tác cán bộ, xây dựng chính sách, pháp luật, thủ tục hành chính, tư pháp, đất đai, môi trường, quy hoạch, xây dựng, quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công... Các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị chủ động rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy chế, quy trình, quy định của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình về trách nhiệm giải trình; tiếp nhận và kịp thời giải thích, làm rõ các vấn đề người dân, doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức kiến nghị, phản ánh, yêu cầu giải trình; chủ động trao đổi, đối thoại trực tiếp với người dân, doanh nghiệp để giải quyết những vấn đề bức xúc ngay từ cơ sở, không để phát sinh khiếu nại, tố cáo kéo dài, vượt cấp.
Tăng cường kiểm tra, giám sát, thanh tra việc chấp hành các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về thực hiện trách nhiệm giải trình của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động công vụ. Kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm các vi phạm, nhất là các hành vi né tránh, đùn đẩy trách nhiệm, chậm giải trình, giải trình không trung thực. Đưa nhiệm vụ kiểm tra, giám sát việc thực hiện trách nhiệm giải trình vào chương trình kiểm tra, giám sát hằng năm của cấp ủy, Ủy ban kiểm tra các cấp.
Phát huy và nâng cao hơn nữa vai trò giám sát của cơ quan và đại biểu dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên, báo chí về trách nhiệm giải trình của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động công vụ. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động chất vấn, trả lời chất vấn, giải trình tại Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp; hoàn thiện cơ chế bảo vệ, phát huy vai trò giám sát của Nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi để Nhân dân kiến nghị, phản ánh các vi phạm trong thực hiện trách nhiệm giải trình của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động công vụ. Tăng cường giám sát chuyên đề về trách nhiệm giải trình và việc thực hiện các kiến nghị, cam kết sau giải trình, gắn với việc trả lời kiến nghị của cử tri, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về trách nhiệm giải trình, bảo đảm kết nối, liên thông từ Trung ương đến cơ sở. Xây dựng Cổng thông tin điện tử chuyên biệt để phục vụ giải trình và tiếp nhận, phản hồi yêu cầu giải trình của Nhân dân, doanh nghiệp; kịp thời thông tin, giải trình về chủ trương, chính sách, quyết sách mới, về các vấn đề phức tạp, nhạy cảm, dư luận xã hội quan tâm.
Về tổ chức thực hiện, Bộ Chính trị, Ban Bí thư yêu cầu các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc Chỉ thị này trong toàn đảng bộ. Xây dựng kế hoạch, cụ thể, xác định rõ trách nhiệm và thường xuyên kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc thực hiện. Đảng ủy Quốc hội, Đảng ủy Chính phủ và các cấp ủy, tổ chức đảng có liên quan tập trung lãnh đạo, chỉ đạo khẩn trương rà soát, sửa đổi, bổ sung pháp luật về phòng, chống tham nhũng và pháp luật liên quan đến thực hiện trách nhiệm giải trình, bảo đảm đồng bộ, thống nhất, khả thi, phù hợp với thực tiễn và tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả.
Đảng ủy Chính phủ chỉ đạo xây dựng bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả thực hiện trách nhiệm giải trình và xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về thực hiện trách nhiệm giải trình, bảo đảm thống nhất, liên thông từ Trung ương đến cơ sở. Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương chỉ đạo đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và Nhân dân về trách nhiệm giải trình của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động công vụ. Ban Tổ chức Trung ương ban hành hướng dẫn, quy định việc đưa tiêu chí về thực hiện trách nhiệm giải trình vào đánh giá, xếp loại, thi đua, khen thưởng cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên hằng năm.
Ủy ban Kiểm tra Trung ương chỉ đạo rà soát, tham mưu sửa đổi, bổ sung các quy định về kiểm tra, giám sát, xử lý kỷ luật đối với các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, người đứng đầu vi phạm về thực hiện trách nhiệm giải trình; hướng dẫn việc đưa nội dung kiểm tra, giám sát việc lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện trách nhiệm giải trình vào chương trình kiểm tra, giám sát hằng năm của các cấp ủy, Ủy ban kiểm tra các cấp. Ban Nội chính Trung ương chủ trì, phối hợp với Ủy ban Kiểm tra Trung ương và các cơ quan có liên quan nghiên cứu, tham mưu Bộ Chính trị ban hành Quy định về thực hiện trách nhiệm giải trình trong Đảng; theo dõi, kiểm tra, giám sát, đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc thực hiện Chỉ thị, báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Chỉ thị này được phổ biến đến chi bộ để thực hiện.
5. Thực hiện giao dịch điện tử trong hoạt động của cơ quan, tổ chức đảng
Ngày 22/10/2025, Ban Bí thư Quy định số 379-QĐ/TW quy định về thực hiện giao dịch điện tử trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức đảng, trong đó nêu rõ việc thực hiện giao dịch điện tử tuân thủ các nguyên tắc chung sau:
Nội dung giao dịch điện tử và việc thực hiện giao dịch điện tử trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức đảng, đảng viên phải bảo đảm tuân thủ các quy định của Luật Giao dịch điện tử, Luật Bảo vệ bí mật nhà nước, Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân và các quy định pháp luật khác có liên quan, đồng thời phù hợp với Quy định này và các quy định khác của Đảng có liên quan. Bắt buộc sử dụng văn bản điện tử trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức đảng; chỉ chuyển đổi hình thức từ văn bản điện tử sang văn bản giấy trong các trường hợp thật sự cần thiết hoặc theo các quy định của Đảng và Nhà nước.
Việc thực hiện giao dịch điện tử có nội dung thuộc danh mục bí mật nhà nước phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước và pháp luật về cơ yếu. Dữ liệu trong giao dịch điện tử cần được quản lý theo nguyên tắc mở, liên thông, chia sẻ có kiểm soát; bảo đảm tính thống nhất và đồng bộ trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức đảng; tuân thủ Khung kiến trúc dữ liệu quốc gia tổng thể, Khung quản trị, quản lý dữ liệu, Từ điển dữ liệu quốc gia và quy định về kết nối chia sẻ dữ liệu bắt buộc trong hệ thống chính trị; bảo đảm khai thác, sử dụng hiệu quả, đồng thời giữ vững an toàn, an ninh thông tin và đúng thẩm quyền.
Việc tạo lập, số hóa, truyền nhận, quản lý, lưu trữ trên môi trường điện tử phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước và pháp luật về cơ yếu, phải được mã hóa theo quy định. Trường hợp hệ thống gặp sự cố, cơ quan chủ quản hệ thống có trách nhiệm thông báo ngay; chủ trì, phối hợp với các đơn vị kỹ thuật chuyên trách để khắc phục trong thời gian sớm nhất. Trong thời gian gián đoạn, các hoạt động được tạm thời chuyển sang xử lý bằng văn bản giấy. Đơn vị kỹ thuật chuyên trách có trách nhiệm hỗ trợ số hóa lại dữ liệu đã xử lý bằng giấy để bảo đảm tính liên tục, toàn vẹn của thông tin.
Việc ứng dụng hệ thống thông minh tự động, trí tuệ nhân tạo trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức đảng phải đặt dưới sự giám sát của con người; mọi quyết định quan trọng do hệ thống đề xuất, đặc biệt là các quyết định liên quan đến công tác cán bộ, phải được người có thẩm quyền xem xét, thẩm định và phê duyệt; bảo đảm tính minh bạch, an toàn, bảo mật thông tin và tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ.
Quy định cũng nêu rõ các hành vi bị nghiêm cấm trong thực hiện giao dịch điện tử, bao gồm các hành vi sau: Cản trở việc lựa chọn, sử dụng giao dịch điện tử. Lợi dụng giao dịch điện tử để xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Truy nhập, can thiệp, thay đổi, xóa, hủy, sao chép, tiết lộ, hiển thị, di chuyển trái phép một phần hoặc toàn bộ dữ liệu, văn bản điện tử, nhật ký hệ thống. Tạo ra hoặc phát tán chương trình phần mềm độc hại hoặc tác động đến hạ tầng kỹ thuật nhằm gây rối loạn, thay đổi, phá hoại hoạt động của hệ thống thông tin phục vụ giao dịch điện tử.
Lợi dụng giao dịch điện tử để thực hiện, che giấu hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm kỷ luật đảng, vi phạm quy định về những điều đảng viên không được làm. Cung cấp thông tin không chính xác, giả mạo, mạo danh cơ quan, tổ chức, cá nhân khác để thực hiện giao dịch điện tử. Sử dụng chữ ký số không đúng mục đích. Tự ý can thiệp vào hạ tầng kỹ thuật, máy chủ, đường truyền nội bộ. Không tuân thủ quy trình bảo mật, sao lưu, phục hồi dữ liệu theo quy định; truy cập trái phép vào hệ thống giao dịch điện tử nội bộ của Đảng hoặc can thiệp vào hệ thống xử lý văn bản. Phá hoại, làm gián đoạn kết nối mạng nội bộ, mạng diện rộng của Đảng. Giả mạo chữ ký số của cơ quan, tổ chức, cá nhân khi thực hiện giao dịch điện tử. Các hành vi bị nghiêm cấm khác theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
6. Định hướng phát triển thị trường bán lẻ Việt Nam
Với mục tiêu phát triển thị trường bán lẻ văn minh, hiện đại, bền vững, gắn với định hướng phát triển thương mại trong nước; tuân thủ đúng các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên; phù hợp với xu thế phát triển của thương mại điện tử và kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế chia sẻ; thực hiện tốt chức năng kết nối giữa sản xuất với tiêu dùng; gia tăng sức mua trong nước đồng thời kích cầu tiêu thụ sản phẩm Việt Nam trên thị trường quốc tế; góp phần nâng cao giá trị và sức cạnh tranh của hàng hóa, tạo tiền đề để các doanh nghiệp bán lẻ tham gia sâu hơn vào thị trường bán lẻ thế giới.
Giai đoạn đến năm 2030, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng (chưa loại trừ yếu tố giá) tăng bình quân 11,0-11,5%/năm. Thương mại điện tử phát triển nhanh với hành lang pháp lý hoàn thiện, áp dụng công nghệ, hạ tầng kỹ thuật hiện đại cùng với phương tiện hỗ trợ đầy đủ, bảo đảm tính an toàn và thuận tiện cho doanh nghiệp và người tiêu dùng trong quá trình tham gia giao dịch. Doanh số thương mại điện tử tăng bình quân 15-20%/năm, chiếm 15-20% tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cả nước vào năm 2030. Phấn đấu khoảng 40-45% số doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia các sàn thương mại điện tử. Chính sách về phát triển thị trường bán lẻ từng bước được hoàn thiện; môi trường kinh doanh được cải thiện, hướng đến hình thành và phát triển thị trường cạnh tranh công bằng, minh bạch, thu hút được các nhà bán lẻ có năng lực và uy tín tham gia thị trường; khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam đổi mới sáng tạo, phát triển theo các loại hình bán lẻ hiện đại trên thế giới. Hạ tầng phục vụ bán lẻ được đầu tư phát triển, chú trọng nâng cấp hạ tầng khu vực vùng biên giới, nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo.
Giai đoạn 2031-2050, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng (chưa loại trừ yếu tố giá) tăng bình quân 10,0-10,5%/năm. Thương mại điện tử phát triển mạnh mẽ, đóng vai trò chủ đạo trong giao dịch thương mại. Doanh số thương mại điện tử tăng bình quân 13-15%/năm, chiếm 20-25% tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cả nước vào năm 2050. Phấn đấu trên 70% số doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động trong lĩnh vực thương mại tham gia các sàn thương mại điện tử. Chính sách về phát triển thị trường bán lẻ được hoàn thiện, hỗ trợ tối đa cho các doanh nghiệp bán lẻ trong nước, đồng thời phù hợp với các cam kết quốc tế; hình thành được một số thương hiệu bán lẻ lớn của Việt Nam, có năng lực cạnh tranh và uy tín trên thị trường trong và ngoài nước. Hạ tầng phục vụ bán lẻ trong nước phát triển theo hướng hiện đại, đồng bộ giữa khu vực thành thị với nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới và hải đảo; các cơ sở bán lẻ đều được ứng dụng công nghệ, số hóa các giao dịch mua bán; hàng hóa lưu thông qua hệ thống bán lẻ bảo đảm các tiêu chí về an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc và bảo vệ môi trường.
Chiến lược phát triển thị trường bán lẻ Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 được Thủ tướng phê duyệt bởi Quyết định số 2326/QĐ-TTg, ngày 21/10/2025 nêu rõ các định hướng phát triển như sau:
Khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia phát triển thị trường bán lẻ theo những hình thức và quy mô thích hợp; hình thành lực lượng phân phối nòng cốt trong nước thông qua những ưu đãi bước đầu về cơ chế, chính sách tài chính và đất đai. Hình thành các tập đoàn, doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực phân phối, chủ yếu là doanh nghiệp nội địa, bao gồm cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó xác định các doanh nghiệp tư nhân là lực lượng nòng cốt tạo nên động lực quan trọng, đóng góp vào sự phát triển của thị trường.
Đa dạng hóa các loại hình kinh doanh bán lẻ, nhất là những loại hình có khả năng gắn kết và thúc đẩy phát triển sản xuất trong nước phù hợp với quá trình hội nhập của Việt Nam. Thực hiện định hướng chuyển dịch hệ thống phân phối bán lẻ sang các loại hình phân phối hiện đại như siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng tiện lợi, cửa hàng chuyên doanh, bảo đảm sự phát triển hài hòa giữa các loại hình và phù hợp với từng phân khúc thị trường trước xu hướng gia tăng áp lực cạnh tranh với các nhà bán lẻ nước ngoài. Phát triển kết hợp các loại hình kinh doanh bán lẻ hiện đại, loại hình đa kênh, thương mại điện tử với các loại hình bán lẻ truyền thống; loại hình bán lẻ hàng tồn kho kết hợp với khuyến mại kích cầu tiêu dùng; đầu tư phát triển các khu thương mại - dịch vụ tổng hợp với chợ truyền thống là hạt nhân kết hợp với đường phố thương mại, vừa mang tính hiện đại vừa giữ được nét văn hóa kinh doanh truyền thống. Phát triển các loại hình bán lẻ hiện đại, mở rộng và tăng cường quản lý các chuỗi cửa hàng bán lẻ, loại hình nhượng quyền của các thương hiệu Việt Nam và quốc tế, loại hình bán lẻ tập trung lớn do các tập đoàn, doanh nghiệp phân phối trong nước đầu tư.
Hình thành các chuỗi liên kết để kết nối sản xuất với phân phối hàng hóa, tập trung trước hết vào các chuỗi cung ứng hàng nông sản thực phẩm thiết yếu nhằm đảm bảo ổn định cung - cầu, quản lý có hiệu quả chất lượng và an toàn thực phẩm lưu thông trên thị trường; liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp bán lẻ với các nhà sản xuất trong việc tạo nguồn hàng ổn định với giá cả cạnh tranh, bảo đảm chất lượng, đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng. Tổ chức và vận hành hiệu quả hệ thống phân phối các nhóm hàng hóa thiết yếu trên thị trường; xây dựng và hình thành các chuỗi liên kết sản xuất và phân phối theo hướng bền vững, trong đó đẩy mạnh liên kết trong chuỗi cung ứng gắn với thực hiện tốt các quy định về chất lượng, an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc; phát triển chuỗi cung ứng các sản phẩm thân thiện với môi trường, được dán nhãn sinh thái... Phát triển các chuỗi liên kết theo phương thức nhượng quyền kinh doanh và các chuỗi liên kết tự nguyện của các siêu thị nhỏ, các cửa hàng chuyên doanh để tăng cường năng lực cạnh tranh. Với các chuỗi bán lẻ nhượng quyền, đẩy nhanh quá trình công nhận tác quyền, sáng chế, các thủ tục bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, đăng ký nhãn hiệu để tạo điều kiện cho các thương hiệu Việt mở rộng chuỗi trên thị trường nội địa và quốc tế.
Đối với các doanh nghiệp nhỏ, hợp tác xã thương mại, hộ kinh doanh cá thể và cá nhân kinh doanh, khuyến khích hình thành các chuỗi liên kết đơn ngành hoặc đa ngành, thiết lập các chuỗi liên kết dọc (liên kết hình thành chuỗi cung ứng của một hoặc một nhóm sản phẩm, hàng hóa) và liên kết ngang (giữa những doanh nghiệp cùng ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh), tăng cường liên kết chặt chẽ giữa các nhà sản xuất, nhà phân phối và nhà cung ứng dịch vụ hỗ trợ để tạo nguồn cung chất lượng cho thị trường bán lẻ. Đồng thời, đổi mới phương thức hoạt động phân phối theo hướng hiện đại, chuyên nghiệp, quảng bá và giới thiệu những sản phẩm đặc trưng, có thế mạnh của các địa phương, vùng miền (OCOP) với thị trường trong và ngoài nước; thúc đẩy các chủ thể tham gia vào chuỗi sản xuất và cung ứng hàng hóa, tăng cường kết nối giữa vùng sản xuất và thị trường tiêu thụ.
Tập trung phát triển mạnh các loại hình kinh doanh thương mại hiện đại như thương mại điện tử, sàn giao dịch điện tử dựa trên nền tảng số hóa; phát triển đa dạng các phương thức bán lẻ, trong đó đặc biệt chú trọng phương thức bán lẻ đa kênh (Omnichannel), bán lẻ qua điện thoại di động, truyền hình, qua các ứng dụng mạng xã hội dựa trên môi trường mạng internet... đáp ứng yêu cầu và xu hướng mua sắm của người tiêu dùng trong tương lai. Tăng cường công tác thống kê, nghiên cứu, phân tích và dự báo thị trường trên cơ sở ứng dụng số hóa, công nghệ trong kinh doanh bán lẻ; đề cao vai trò của thương mại điện tử với sự phát triển của phương thức giao dịch, phương thức thanh toán điện tử, bảo đảm an toàn và thuận tiện cho người tiêu dùng trong quá trình tham gia giao dịch thương mại điện tử.
Hoàn thiện khung pháp lý, có cơ chế thí điểm rõ ràng, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nghiên cứu và vận hành các sàn giao dịch điện tử dựa trên ứng dụng công nghệ tiên tiến, bảo đảm đối xử bình đẳng giữa các loại hình kinh doanh bán lẻ trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế về giao dịch thương mại điện tử. Đẩy mạnh phát triển các dịch vụ công phục vụ cho thương mại điện tử. Phát triển thị trường thương mại điện tử lành mạnh, có tính cạnh tranh và phát triển bền vững. Mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa thông qua ứng dụng thương mại điện tử; khuyến khích ứng dụng và hỗ trợ quá trình chuyển đổi số của doanh nghiệp; đẩy mạnh giao dịch thương mại điện tử khu vực biên giới và xuyên biên giới.
Giai đoạn từ nay đến năm 2030, phát triển đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng thương mại bán lẻ, trước mắt cần kết hợp hài hòa, hợp lý giữa kết cấu hiện đại và truyền thống, phù hợp với tính chất và trình độ, quy mô, triển vọng phát triển của từng địa bàn, khu vực thị trường. Phát triển trung tâm logistics cấp vùng, địa phương và chuyên dụng phù hợp với xu hướng phát triển thị trường, bảo đảm kết nối giao thông hiệu quả và cung cấp các dịch vụ logistics đáp ứng tốt nhu cầu sản xuất, lưu thông trong nước và hoạt động xuất nhập khẩu; nâng cấp, quy hoạch hệ thống kho bãi phù hợp, gần các tuyến đường giao thông, sân bay, cảng biển, cảng thủy nội địa nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển, trung chuyển hàng hóa; tăng cường kết nối hệ thống cảng, kho bãi, hải quan qua hệ thống logistics thông minh, số hóa thủ tục hải quan (VNACCS/VCIS) để nâng cao hiệu quả hoạt động logistics ở Việt Nam, tạo điều kiện cho luồng hàng hóa trên các tuyến vận tải đa phương thức dịch chuyển được dễ dàng, nhanh chóng với mức chi phí vận tải và dịch vụ logistics cạnh tranh trong khu vực và quốc tế.
7. Đảng viên tiên phong trong học tập kỹ năng số
Phần II: Bồi dưỡng các kỹ năng số cho đảng viên
7.1. Nhận thức số - Kỹ năng tư duy trong môi trường số
Nhận thức số là khả năng hiểu đúng bản chất, vai trò và tác động của chuyển đổi số đối với cá nhân, tổ chức và xã hội. Người có nhận thức số biết rằng chuyển đổi số không chỉ là số hóa văn bản hay ứng dụng phần mềm, mà là sự thay đổi toàn diện phương thức lãnh đạo, quản lý, điều hành và phục vụ. Đảng viên có nhận thức số vững vàng sẽ từ bỏ tư duy thụ động, ngại thay đổi, hình thành tinh thần cầu thị, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm.
Nhận thức số giúp cán bộ định vị đúng vai trò, lựa chọn công cụ phù hợp, tối ưu hóa thời gian, học hỏi kỹ năng mới và lan tỏa tinh thần đổi mới đến cộng đồng. Đặc biệt, đó còn là khả năng nhận diện đúng - sai, thật - giả trên không gian mạng, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Nâng cao nhận thức số chính là tiền đề để hình thành văn hóa số, với tinh thần minh bạch, cởi mở, trách nhiệm và học tập suốt đời.
7.2. Kỹ năng sử dụng các công cụ số cơ bản
Kỹ năng sử dụng công cụ số cơ bản là năng lực làm chủ các thiết bị thông minh, phần mềm văn phòng, công cụ quản trị và nền tảng giao tiếp trực tuyến. Đảng viên cần biết khai thác hiệu quả điện thoại thông minh, máy tính bảng, email, mạng xã hội chính thống, phần mềm quản trị công việc, và hệ thống văn phòng điện tử.
Việc nắm vững các ứng dụng văn phòng như Google Workspace, Microsoft 365 hay các công cụ họp trực tuyến như Zoom, Google Meet, Microsoft Teams là yêu cầu tối thiểu. Biết sử dụng Zalo OA hay các nền tảng tương tác hai chiều giữa cơ quan với nhân dân cũng là một minh chứng rõ nét cho năng lực công cụ số. Đây không chỉ là thao tác kỹ thuật, mà là biểu hiện của tư duy đổi mới, thái độ cầu thị và khả năng thích ứng trong công tác Đảng
7.3. Kỹ năng làm việc, trao đổi trong môi trường số
Trong môi trường số, phương thức tổ chức công việc và trao đổi thay đổi căn bản. Cán bộ, đảng viên cần thành thạo kỹ năng quản lý thời gian và công việc trên nền tảng số, biết sử dụng ứng dụng lập kế hoạch, nhắc việc và theo dõi tiến độ.
Đồng thời, cần nắm vững kỹ năng họp trực tuyến và làm việc từ xa, biết chuẩn bị nội dung, điều hành trên nền tảng số, ghi chép điện tử, duy trì kỷ luật và cam kết tiến độ. Kỹ năng cộng tác trên nền tảng số cũng rất quan trọng, giúp phối hợp nhóm hiệu quả, phân công nhiệm vụ rõ ràng, phản biện có văn hóa và báo cáo kịp thời.
Làm việc và trao đổi trong môi trường số không còn là lựa chọn, mà là tiêu chí đánh giá năng lực cán bộ trong bối cảnh hiện nay.
7.4. Kỹ năng tra cứu, khai thác và xử lý thông tin số
Thông tin là nguồn lực chiến lược trong thời đại số. Người đảng viên cần có khả năng tìm kiếm và khai thác thông tin chính thống trên các cổng điện tử của Chính phủ, Đảng, Quốc hội, bộ ngành, địa phương, cũng như các cơ sở dữ liệu quốc gia.
Cùng với đó, kỹ năng đánh giá độ tin cậy và kiểm chứng thông tin là yêu cầu cấp thiết, giúp phân biệt đúng - sai, tránh bị tác động bởi thông tin sai lệch, xuyên tạc, cắt ghép. Đặc biệt, cán bộ, đảng viên phải tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc bảo mật dữ liệu cá nhân và tài liệu công vụ, sử dụng mật khẩu mạnh, nền tảng bảo mật và các quy định pháp luật hiện hành.
Đây là năng lực gắn trực tiếp với bản lĩnh chính trị và tinh thần trách nhiệm của người đảng viên trong bảo vệ uy tín của tổ chức Đảng và hệ thống chính trị.
7.5. Tự học suốt đời và phát triển năng lực số cá nhân
Tự học suốt đời trong thời đại số là yêu cầu bắt buộc, không còn là lựa chọn cá nhân. Người đảng viên phải chủ động học tập trên các nền tảng học tập mở (MOOC), hệ thống quản lý học tập (LMS), Cổng học tập chuyển đổi số quốc gia, Học viện Chuyển đổi số Việt Nam và các nền tảng quốc tế uy tín.
Việc học cần gắn với nhu cầu công tác, lộ trình nghề nghiệp và yêu cầu thực tiễn, hình thành kỷ luật tự học, phân bổ thời gian hợp lý, kiên trì theo đuổi mục tiêu. Mỗi bước tiến trong năng lực số cá nhân sẽ góp phần trực tiếp vào nâng cao chất lượng công tác chung của tổ chức Đảng.
7.6. Kỹ năng an toàn - bảo mật số
Trong không gian số, an toàn và bảo mật thông tin là yêu cầu hàng đầu. Đảng viên cần nắm vững kỹ năng quản lý mật khẩu, xác thực hai yếu tố, bảo mật email công vụ, tài khoản lưu trữ, và tuyệt đối không chia sẻ dữ liệu mật trên nền tảng không chính thức.
Cùng với đó, phải rèn luyện kỹ năng nhận diện tấn công mạng, cảnh giác trước email giả mạo, tin nhắn lừa đảo, ứng dụng không rõ nguồn gốc. Đặc biệt, đảng viên phải xây dựng văn hóa mạng văn minh, có trách nhiệm, giữ gìn bản lĩnh chính trị, không phát ngôn, chia sẻ, bình luận tùy tiện gây ảnh hưởng đến uy tín tổ chức.
An toàn số không chỉ bảo vệ cá nhân mà còn bảo vệ cả hệ thống. Mỗi đảng viên chính là một mắt xích trong an ninh thông tin quốc gia, thể hiện phẩm chất trung thành, kỷ luật, bản lĩnh và tận tụy trong kỷ nguyên số.
8. Quy hoạch thủy lợi lưu vực sông Cửu Long
Quy hoạch thủy lợi lưu vực sông Cửu Long thời kỳ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 được phê duyệt bởi Quyết định số 2307/QĐ-TTg, ngày 17/10/2025. Theo phê duyệt, phạm vi quy hoạch gồm toàn bộ địa giới hành chính của các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long gồm thành phố Cần Thơ và các tỉnh: Vĩnh Long, Cà Mau, An Giang, Đồng Tháp và một phần tỉnh Tây Ninh, với diện tích khoảng 4 triệu ha (không bao gồm các đảo).
Mục tiêu nhằm chủ động điều tiết nguồn nước, thích ứng với phát triển thượng nguồn và biến đổi khí hậu để cấp nước, tiêu, thoát nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, tạo nguồn cấp nước bền vững cho dân sinh và các ngành kinh tế; đáp ứng yêu cầu chuyển đổi mô hình sản xuất một cách linh hoạt; nâng cao năng lực chủ động phòng, chống thiên tai, sẵn sàng ứng phó với trường hợp bất lợi nhất; đáp ứng yêu cầu phục vụ phát triển kinh tế - xã hội bền vững, bảo vệ môi trường; góp phần bảo đảm an ninh nguồn nước, giữ vững quốc phòng, an ninh.
Phấn đấu thực hiện đến năm 2030, tưới, cấp nước: Bảo đảm cấp và tạo nguồn cấp nước sinh hoạt cho khoảng 17-18 triệu người; tạo nguồn cấp nước cho các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao từ các hệ thống công trình thủy lợi. Bảo đảm cấp nước chủ động cho sinh hoạt nông thôn và sản xuất nông nghiệp trong trường hợp hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn tương đương đợt hạn năm 2015-2016 tại đồng bằng sông Cửu Long, đến năm 2030 giải quyết dứt điểm nước sinh hoạt cho người dân nông thôn vùng ảnh hưởng hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn.
Nâng cấp, sửa chữa, xây dựng mới các công trình thủy lợi và hoàn thiện hệ thống kênh, rạch, kết hợp với giao thông nội đồng để chủ động tưới, tiêu, điều tiết nước mặn, ngọt cho một triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long,... Chủ động tiêu, thoát nước ra sông trục chính, tăng diện tích tiêu bằng động lực, đảm bảo tiêu, thoát nước ở vùng thấp trũng phục vụ dân sinh, nông nghiệp với tần suất từ 5% đến 10%; đáp ứng yêu cầu tiêu, thoát cho khu đô thị, công nghiệp; tiêu thoát chủ động cho 1,6 triệu ha diện tích lúa 2-3 vụ, 0,4 - 0,45 triệu ha cây ăn trái, 0,21 triệu ha cây hàng năm, 0,8 triệu ha nuôi trồng thủy sản.
Phòng, chống ngập úng với tần suất 1% cho các đô thị thuộc các tỉnh, thành phố: Cần Thơ, Cà Mau, Vĩnh Long, An Giang, Đồng Tháp, dành không gian chứa nước từ 7-10% diện tích đất phục vụ chống ngập cho các đô thị, kết hợp tạo cảnh quan môi trường, sinh thái. Chủ động kiểm soát mặn khoảng 1,35 triệu ha đất sản xuất nông nghiệp theo các điểm khống chế mặn từ 1g/l đến 4g/l trong vùng.
Đến năm 2050, bảo đảm chủ động nguồn nước phục vụ sản xuất và dân sinh trong mọi tình huống bất lợi, giảm thiểu thiệt hại cho đời sống và sản xuất của người dân do tình trạng hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn gây ra ở mức thấp nhất. Bảo đảm đầu tư đồng bộ, khép kín các hệ thống công trình thủy lợi từ đầu mối đến nội đồng, nâng dần mức đảm bảo cấp nước, tiêu thoát nước, phòng chống lũ của các hệ thống thủy lợi. Hoàn thiện các hệ thống tích trữ, điều hòa, liên kết nguồn nước liên vùng, đảm bảo chủ động kiểm soát lũ, kiểm soát mặn, hạn chế thiên tai do nước gây ra. Giải quyết cơ bản hiện tượng ngập úng do lũ, mưa và triều cường cho các khu vực đô thị bằng các giải pháp thủy lợi.
Để đạt được các mục tiêu trên, cần triển khai các giải pháp như: Phân vùng quy hoạch và điểm khống chế mặn; giải pháp công trình; giải pháp phi công trình.
Vùng sinh thái ngọt, diện tích 1,9 triệu ha bao gồm một phần của hệ thống thủy lợi Đồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên, Bắc Vàm Nao, Nam Vàm Nao, vùng Tây sông Hậu, Bắc Vĩnh An, U Minh Hạ, thuộc một phần các tỉnh, thành phố: Đồng Tháp, An Giang, Vĩnh Long, Tây Ninh, Cần Thơ, Cà Mau. Định hướng phát triển thủy lợi cho vùng này phục vụ cho các mô hình sản xuất: cây ăn trái, lúa, rau màu và thủy sản nước ngọt. Vùng sinh thái ngọt - lợ, diện tích 1,35 triệu ha bao gồm các hệ thống thủy lợi Nhật Tảo - Tân Trụ, Gò Công, Bắc Bến Tre, Nam Bến Tre, Nam Măng Thít, Long Phú - Tiếp Nhật, U Minh Thượng, một phần của Tứ Giác Long Xuyên, thuộc một phần các tỉnh, thành phố: An Giang, Cà Mau, Cần Thơ, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Tây Ninh. Định hướng phát triển thủy lợi cho vùng này phục vụ cho các mô hình sản xuất: cây ăn trái, lúa, tôm - lúa. Các giải pháp thủy lợi cần linh hoạt phục vụ chuyển đổi sản xuất, phù hợp với điều kiện nguồn nước.
Vùng sinh thái mặn, diện tích 0,75 triệu ha vùng ven biển thuộc các tỉnh/thành phố: An Giang, Cà Mau, Cần Thơ, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Tây Ninh. Định hướng phát triển thủy lợi cho vùng này tập trung phục vụ cho nuôi trồng thủy sản với các hình thức: thâm canh, quảng canh cải tiến, tôm - rừng.
Điểm khống chế mặn trên dòng chính với độ mặn 1g/l phục vụ cấp nước sinh hoạt và cây ăn trái: trên sông Vàm Cỏ Tây tại cống Bắc Đông; trên sông Tiền tại đầu kênh Nguyễn Tấn Thành; trên sông Hàm Luông tại An Hiệp; trên sông Cổ Chiên tại vị trí hợp lưu với sông Măng Thít; trên sông Hậu tại kênh Cái Cui; trên sông Cái Lớn tại cầu Cái Tư. Điểm khống chế mặn trên dòng chính với độ mặn 4g/l ngưỡng mặn tối đa phục vụ sản xuất lúa: trên sông Tiền tại cống Xuân Hòa; trên sông Hàm Luông tại Mỹ Hóa; trên sông Cổ Chiên tại cống Vũng Liêm; trên sông Hậu tại kênh Cái Côn; trên sông Vàm Cỏ Tây tại Tân An.
Tập trung giải pháp kiểm soát lũ tràn biên giới từ Campuchia vào Việt Nam tại vùng Tứ Giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười; lũ trên dòng chính sông Tiền, sông Hậu; tăng khả năng tiêu, thoát lũ nội đồng. Cấp nước, tiêu, thoát nước: Tăng cường cấp nước từ sông chính vào các khu vực xa sông gần biển, các khu vực thiếu nước ngọt; xây dựng hệ thống cống lớn đầu kênh, cống cửa sông, cống dưới đê thành các ô bao lớn để chủ động chống ngập úng, tiêu, thoát nước; nạo vét kênh, rạch, tăng khả năng cấp, tiêu, thoát nước. Vùng sinh thái ngọt - lợ thực hiện cấp nước, tiêu, thoát nước: Hoàn thiện khép kín hệ thống thủy lợi chủ động cấp, tiêu, thoát nước phục vụ dân sinh, sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản và cây ăn trái.
Hoàn thiện, khép kín các hệ thống thủy lợi, xây dựng các công trình kiểm soát mặn. Vùng sinh thái mặn thực hiện cấp nước, tiêu, thoát nước: Hoàn thiện hệ thống thủy lợi để chủ động điều tiết nguồn nước mặn - ngọt, kiểm soát triều cường; hoàn thiện các ô bao thủy lợi để bảo vệ khu vực sản xuất; tăng cường trữ nước trong hệ thống kênh, rạch; cân đối, điều hòa nguồn nước giữa các khu vực; đề xuất giải pháp cấp nước mặn từ biển. Tiếp tục đầu tư xây dựng củng cố, nâng cấp các tuyến đê biển, hệ thống kè chắn sóng gây bồi, tạo bãi kết hợp với trồng rừng ngập mặn bảo vệ đê biển, bờ biển...
9. Đầu tư phát triển mạng lưới trường, lớp, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, đồ dùng, đồ chơi cho trẻ em từ 3-5 tuổi
Ngày 20/10/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 277/2025/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 218/2025/QH15 ngày 26/6/2025 của Quốc hội về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em từ 3 đến 5 tuổi. Nghị định gồm 05 chương, 29 điều quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 218/2025/QH15 ngày 26/6/2025 của Quốc hội về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em từ 3 đến 5 tuổi, gồm các nội dung: đầu tư phát triển mạng lưới trường, lớp, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, đồ dùng, đồ chơi; chính sách phát triển đội ngũ và hỗ trợ trẻ em; lộ trình đạt chuẩn, tiêu chuẩn công nhận, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, đồ dùng, đồ chơi và quy trình, thủ tục kiểm tra công nhận phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em từ 3-5 tuổi.
Về đầu tư phát triển mạng lưới trường, lớp, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, đồ dùng, đồ chơi, Nghị định nêu rõ: Tăng cường nguồn lực từ ngân sách trung ương và ngân sách địa phương đầu tư cơ sở vật chất. Khuyến khích thu hút các nguồn lực của xã hội đầu tư cơ sở vật chất phát triển giáo dục mầm non. Đầu tư phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục mầm non bảo đảm đủ trường lớp, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, đồ dùng, đồ chơi thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em từ 3-5 tuổi. Nâng chuẩn cơ sở giáo dục mầm non theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, đáp ứng yêu cầu thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em từ 3-5 tuổi.
Ưu tiên dành quỹ đất sạch, cho phép chuyển đổi linh hoạt mục đích sử dụng đất sang đất xây dựng cơ sở giáo dục mầm non; tập trung giải phóng mặt bằng, giao đất sạch cho các dự án giáo dục mầm non. Không thu tiền sử dụng đất, giảm tiền thuê đất, tiền thuế đất đối với các cơ sở giáo dục mầm non. Không áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp đối với cơ sở giáo dục mầm non công lập, cơ sở giáo dục mầm non tư thục hoạt động không vì lợi nhuận. Ưu tiên dành trụ sở cơ quan nhà nước dôi dư sau sắp xếp cho các cơ sở giáo dục mầm non; cho phép áp dụng hình thức cho thuê công trình thuộc sở hữu nhà nước đối với cơ sở giáo dục mầm non tư thục.
Ưu tiên đầu tư kinh phí của Trung ương và địa phương từ các chương trình, dự án bảo đảm đến năm 2030 có 100% các cơ sở giáo dục mầm non công lập, cơ sở giáo dục mầm non thuộc lực lượng vũ trang ở các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, xã thuộc vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, biên giới, hải đảo, bãi ngang, ven biển, khu đông dân cư, địa bàn có khu, cụm công nghiệp, khu chế xuất đủ trường lớp, bảo đảm 01 phòng học/lớp mẫu giáo, 100% phòng học kiên cố, có đủ các phòng chức năng, thư viện trường mầm non, đủ đồ chơi ngoài trời, đồ chơi trong lớp, thiết bị dạy học, đủ bếp ăn, nhà vệ sinh và công trình nước sạch theo quy định.
Cơ sở giáo dục mầm non công lập, cơ sở giáo dục mầm non thuộc lực lượng vũ trang tại xã khu vực III, khu vực II, khu vực I, xã có thôn đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo theo quy định của cấp có thẩm quyền, có trẻ em từ 3-5 tuổi học và ăn, ngủ trưa tại cơ sở giáo dục mầm non (sau đây gọi là trẻ em bán trú) được hưởng các chính sách sau:
Được hỗ trợ tiền để mua giấy, truyện tranh, sáp màu, bút chì, đồ chơi và các đồ dùng, học liệu học tập khác; chăn, màn và các đồ dùng cá nhân cho trẻ em từ 3-5 tuổi bán trú với mức kinh phí là 1.350.000 đồng/trẻ em/năm học. Được hỗ trợ tiền điện, nước phục vụ học tập và sinh hoạt của trẻ em từ 3-5 tuổi bán trú với định mức là 5KW điện/tháng/trẻ em và 01m3 nước/tháng/trẻ em theo giá quy định tại địa phương và được hưởng không quá 9 tháng/năm học. Nơi chưa có điều kiện cung cấp các dịch vụ điện, nước hoặc bị mất điện, nước thì nhà trường được sử dụng kinh phí để mua thiết bị thắp sáng và nước sạch cho trẻ em.
Được hỗ trợ kinh phí trông trưa đối với trẻ em từ 3-5 tuổi: Mỗi nhóm 25 trẻ em từ 3-4 tuổi, trong đó ít nhất có 8 trẻ em từ 3-4 tuổi bán trú thì được hưởng 01 định mức; mỗi nhóm 30 trẻ em từ 4-5 tuổi, trong đó ít nhất có 10 trẻ em từ 4-5 tuổi bán trú thì được hưởng 01 định mức là 700.000 đồng/tháng/nhóm trẻ em và được hưởng không quá 9 tháng/năm học. Số dư từ 50% trở lên so với số trẻ em từ 3-5 tuổi và số trẻ em từ 3-5 tuổi bán trú của mỗi nhóm thì được tính 01 định mức. Được ngân sách nhà nước hỗ trợ kinh phí chi trả cho nhân viên nấu ăn. Định mức chi trả được tính trên số lượng trẻ em từ 3-5 tuổi bán trú, tối thiểu bằng 3.900.000 đồng/1 tháng/45 trẻ em, số dư từ 20 trẻ em trở lên được tính thêm một lần mức hỗ trợ. Mỗi cơ sở giáo dục mầm non được hưởng không quá 05 lần mức hỗ trợ nêu trên/1 tháng và không quá 9 tháng/1 năm học.
Cơ sở giáo dục mầm non độc lập, cơ sở giáo dục mầm non thuộc lực lượng vũ trang ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, biên giới, hải đảo, bãi ngang, ven biển, khu đông dân cư, địa bàn có khu, cụm công nghiệp, khu chế xuất thuộc loại hình dân lập, tư thục đã được cấp có thẩm quyền cấp phép thành lập theo đúng quy định thực hiện nhiệm vụ nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em từ 3-5 tuổi được hỗ trợ trang bị cơ sở vật chất 1 lần, bao gồm: trang bị đồ dùng, đồ chơi, thiết bị dạy học theo danh mục quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo và hỗ trợ kinh phí sửa chữa cơ sở vật chất để phục vụ trực tiếp cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ em. Mức hỗ trợ tối thiểu là 50.000.000 đồng/cơ sở giáo dục mầm non độc lập.
Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương
Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII diễn ta từ ngày 05-06/11/2025, tại Thủ đô Hà Nội. Sau 02 ngày làm việc, Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định nhiều nội dung quan trọng, trong đó có một số nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất: Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận dân chủ, kỹ lưỡng với sự nhất trí cao nhân sự giới thiệu tham gia Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa XIV. Ban Chấp hành Trung ương giao Bộ Chính trị và Tiểu ban nhân sự Đại hội XIV tiếp tục xem xét bổ sung, hoàn thiện các phương án nhân sự theo đúng phương hướng công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV và quy trình công tác nhân sự đã đề ra để báo cáo Ban Chấp hành Trung ương xem xét quyết định tại Hội nghị Trung ương 15 sắp tới.
Trung ương thống nhất cao với các nội dung dự kiến Chương trình Đại hội, quy chế làm việc, quy chế bầu cử tại Đại hội và báo cáo về tình hình công tác chuẩn bị Đại hội XIV. Ban Chấp hành Trung ương giao Bộ Chính trị tiếp thu ý kiến của Trung ương, tiếp tục hoàn thiện các dự thảo để trình Đại hội XIV xem xét quyết định.
Thứ hai: Ban Chấp hành Trung ương đã xem xét, cho ý kiến về báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII; báo cáo tình hình thực hiện Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa XIII; Báo cáo tổng kết thực hiện Quy chế làm việc của Ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa XIII; Báo cáo những công việc quan trọng Bộ Chính trị đã giải quyết từ sau Hội nghị Trung ương 13 đến Hội nghị Trung ương 14. Ban Chấp hành Trung ương giao Bộ Chính trị nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của Trung ương, tiếp tục hoàn chỉnh các báo cáo tổng kết và bàn giao cho Ban Chấp hành Trung ương và Ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa XIV xem xét, quyết định sửa đổi, bổ sung Quy chế làm việc của khóa tới.
Thứ ba: Ban Chấp hành Trung ương giao Bộ Chính trị chỉ đạo Tiểu ban văn kiện và các cơ quan liên quan tiếp thu ý kiến đóng góp của các tổ chức chính trị và nhân dân để hoàn thiện thêm một bước Dự thảo các văn kiện. Khẩn trương, nghiêm túc tổng hợp tiếp thu, giải trình các ý kiến đóng góp để hoàn thiện các Dự thảo văn kiện trình Hội nghị Trung ương 15 xem xét hoàn chỉnh để trình Đại hội XIV của Đảng.
Thứ tư: Hội nghị Trung ương lần thứ 14 nhất trí cao với kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa XIII.
Thứ năm: Điểm sáng nhất, đột phá nhất trong triển khai thực hiện Nghị quyết 18-NQ/TW là tổ chức thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp và tổ chức lại địa giới hành chính cấp Tỉnh và cấp Xã, tạo không gian, tiềm năng và cơ hội phát triển cho đất nước trong kỷ nguyên mới.
Mô hình chính quyền 03 cấp đã vận hành được 04 tháng, kết quả ban đầu là khả quan, tăng tính kiến tạo, tăng hiệu lực, hiệu quả phục vụ nhân dân và phát triển kinh tế xã hội; quần chúng nhân dân ủng hộ và tin tưởng, người dân và doanh nghiệp bước đầu thấy được cơ hội, quyền lợi và nghĩa vụ công dân đến với mình thực chất hơn; nhịp sống xã hội rộn ràng, tươi vui hơn. Để phát huy những yếu tố tích cực đó, tôi đề nghị cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp, đặc biệt là các đồng chí Ủy viên Trung ương cần đặc biệt quan tâm hơn nữa đến nhiệm vụ hỗ trợ, tạo điều kiện để mô hình chính quyền 03 cấp, đặc biệt quan tâm tới 02 cấp chính quyền địa phương, hoạt động thực sự hiệu lực, hiệu quả, vươn tới những mục tiêu mà Đảng đã đặt ra, trong đó 03 mục tiêu trọng yếu là giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phát triển nhanh và bền vững; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho Nhân dân.
Phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 14, đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm yêu cầu trong thời gian tới, cần tập trung xử lý những trọng tâm sau: Cả hệ thống chính trị tiếp tục chăm lo, kiến tạo cho mô hình chính quyền địa phương hai cấp hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Phân định thẩm quyền liên thông giữa 03 cấp cho từng lĩnh vực, xóa chồng lấn, không bỏ trống nhiệm vụ. Phân cấp đi kèm kiểm soát, chuyển mạnh sang hậu kiểm, tổ chức kiểm toán nội bộ ở tỉnh/xã. Tài chính công được phân bổ theo kết quả, theo đặc điểm riêng của địa phương. Sớm xác định vị trí việc làm, khoán sản phẩm, đào tạo bắt buộc về chuyên môn, nghiệp vụ, quản trị dữ liệu. Tổ chức một cửa liên thông số, xóa cơ chế “xin - cho”, tăng trách nhiệm người đứng đầu. Xây dựng dữ liệu dùng chung, kết nối dân cư - đất đai - an sinh - doanh nghiệp, cập nhật thời gian thực từ cơ sở tới Trung ương.
Tổng Bí thư lưu ý, nguyên tắc xuyên suốt là “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm” và “rõ người - rõ việc - rõ thời hạn - rõ nguồn lực - rõ trách nhiệm”, “Trung ương làm gương, địa phương hưởng ứng”, “Vì Nhân dân phục vụ”, “Kết quả, sản phẩm công việc là thước đo cao nhất trình độ và phẩm chất cán bộ”.
Tổng Bí thư đề nghị các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng hãy nêu cao hơn nữa tinh thần trách nhiệm trước đất nước và nhân dân, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt những công việc của đơn vị, địa phương mình, đảm bảo hoàn thành các chỉ tiêu được nêu ra trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết của cấp ủy các cấp; khẩn trương tổ chức thực hiện các kết luận của Hội nghị Trung ương lần thứ 14 để góp phần cho thành công của Đại hội XIV của Đảng…
2. Công tác đại hội đảng bộ trực thuộc Trung ương và nhiệm vụ thời gian tới
Ngày 31/10/2025, Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành Kết luận số 201- KL/TW về tình hình, kết quả công tác đại hội đảng bộ trực thuộc Trung ương nhiệm kỳ 2025-2030 và một số nhiệm vụ thời gian tới. Bộ Chính trị, Ban Bí thư yêu cầu triển khai một số nhiệm vụ sau:
Các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương triển khai ngay các công việc sau đại hội và chuẩn bị thật tốt cho Đại hội XIV của Đảng, tập trung vào các nhiệm vụ sau: Khẩn trương hoàn thiện và ban hành ngay các quy chế làm việc, chương trình làm việc toàn khóa, chương trình hành động thực hiện nghị quyết đại hội; kiện toàn, phân công các đồng chí ủy viên ban chấp hành, ban thường vụ, phó bí thư, bí thư và kiện toàn các chức danh lãnh đạo hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, sở, ngành theo phương án nhân sự, bảo đảm dân chủ, khách quan, đúng quy trình, tạo sự đồng thuận và phát huy tinh thần đoàn kết, đổi mới, sáng tạo, đẩy mạnh phong trào thi đua, tạo khí thế mới, niềm tin mới trong tổ chức hành động; đồng thời quán triệt, triển khai đến cấp cơ sở, đưa ngay nghị quyết đại hội vào cuộc sống, trước mắt tập trung thực hiện đạt và vượt mức các nhiệm vụ năm 2025 đã đề ra.
Hoàn thiện đồng bộ thể chế liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của các cơ quan, đơn vị, tổ chức trong hệ thống chính trị để phát triển nhanh và bền vững đất nước. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với cải cách thủ tục hành chính bảo đảm hiệu quả, phù hợp với chính quyền địa phương 02 cấp. Triển khai thực hiện nghiêm các quy định mới về công tác cán bộ, đặc biệt là công tác đánh giá cán bộ bảo đảm dân chủ, công khai, công tâm, khách quan theo hướng xuyên suốt, liên tục, đa chiều, có tiêu chí gắn với hiệu quả, kết quả thực hiện nhiệm vụ, thông qua sản phẩm cụ thể.
Tiếp tục triển khai chủ trương bố trí 100% các chức danh chủ tịch ủy ban nhân dân, chủ nhiệm ủy ban kiểm tra, chánh thanh tra tỉnh không phải là người địa phương, hoàn thành trước ngày 15/12/2025.
Tăng cường công tác tuyên truyền, định hướng dư luận; bảo vệ chính trị nội bộ, bảo vệ bí mật nhà nước; bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh vô hiệu hóa các âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước; phản bác các quan điểm sai trái, thông tin xuyên tạc, xấu độc, nhất là trên không gian mạng liên quan đến công tác chuẩn bị đại hội; xử lý nghiêm các vi phạm.
Tập trung chuẩn bị tốt các công việc tổ chức Đại hội XIV của Đảng. Thường trực các tiểu ban nghiên cứu tiếp thu ý kiến tham gia góp ý từ đại hội đảng các cấp; ý kiến đại biểu Quốc hội và các tầng lớp nhân dân, trí thức, nhà khoa học,... để hoàn thiện Dự thảo Văn kiện trình Hội nghị Trung ương 15. Tiếp tục chuẩn bị các nội dung về nhân sự và các điều kiện cần thiết để tổ chức thành công Đại hội XIV của Đảng.
Tổ chức tốt việc tổng kết công tác năm 2025 và triển khai nhiệm vụ năm 2026. Chuẩn bị sớm các công việc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XVI và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026-2031.
3. Thi đua lập thành tích chào mừng Đại hội lần thứ XIV của Đảng
Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Chỉ thị số 45-CT/TW, ngày 14/4/2025 của Bộ Chính trị về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, ngày 05/10/2025, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương đã phát động Đợt thi đua lập thành tích chào mừng Đại hội lần thứ XIV của Đảng; tăng tốc, bứt phá hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng; ban hành Kế hoạch số 2437/QĐ-TTg, ngày 04/11/2025 với các nội dung thi đua và lộ trình thực hiện, tiêu chí khen thưởng như sau:
Để toàn dân đồng lòng, thi đua hành động, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ, hướng tới Đại hội XIV của Đảng thành công, các bộ, ban, ngành, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây viết tắt là bộ, ngành, địa phương), tổ chức, doanh nghiệp và mọi người dân triển khai Đợt thi đua với tinh thần “quyết tâm cao, hành động quyết liệt, hiệu quả thiết thực”, tập trung thi đua thực hiện các nội dung chủ yếu sau:
Thi đua thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2025 và Kế hoạch 5 năm (2021-2025) theo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, các đề án, chương trình được Chính phủ giao theo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và các Nghị quyết của Quốc hội.
Thi đua thực hiện tốt công tác chuẩn bị và tổ chức thành công Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng bảo đảm đúng quy định.
Thi đua xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh, đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, thực hiện tốt công tác cán bộ, chống chủ nghĩa cá nhân, tiêu cực, tăng cường phối hợp giữa các cấp chính quyền với Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội.
Thi đua đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện đồng bộ về thể chế phát triển nhanh, bền vững đất nước, phát huy mọi động lực, đột phá mạnh mẽ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, thu hút, trọng dụng nhân tài, đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất mới.
Thi đua hoàn thành, hoàn thành vượt mức các công trình phát triển kết cấu hạ tầng, kinh tế vùng, kinh tế biển, lấy các đô thị làm động lực phát triển vùng và đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới.
Đợt thi đua được triển khai từ tháng 10/2025 đến khi tổ chức thành công Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.
Tiêu chí thi đua đối với các bộ, ban, ngành trung ương: Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao; đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển nhanh, bền vững đất nước, tháo gỡ kịp thời dứt điểm các điểm nghẽn, nút thắt, khơi thông và giải phóng sức sản xuất, mọi nguồn lực, đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất mới. Đẩy mạnh cải cách hành chính, chuyển đổi số; lao động sáng tạo, hoàn thành đúng tiến độ hoặc vượt kế hoạch, đảm bảo chất lượng các công trình, dự án, nhất là các dự án quan trọng quốc gia, các dự án có sức ảnh hưởng, hạ tầng số, các công trình an sinh xã hội ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn để tạo sự đột phá, đảm bảo quốc phòng, an ninh.
Đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương: Hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2025, bảo đảm ổn định chính trị, giữ vững quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội. Tổ chức tốt công tác tuyên truyền, cổ vũ cho Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. Cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả quản trị, thi đua xây dựng chính quyền điện tử, chính quyền số, tăng cường phục vụ người dân và doanh nghiệp. Xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm người đứng đầu trong điều hành, tổ chức thực hiện, làm tốt công tác dân vận, đối thoại với nhân dân, giải quyết hiệu quả đơn thư, khiếu nại, tố cáo.
Đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội: Tổ chức sâu rộng các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động đến đông đảo các tầng lớp nhân dân, phát huy tinh thần thi đua sáng tạo, vận động mọi nguồn lực xã hội tạo nên sức mạnh góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Phát huy mạnh mẽ vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc thực hành dân chủ và phát huy quyền dân chủ của Nhân dân trong đời sống xã hội. Thực hiện tốt chức năng giám sát và phản biện xã hội, đặc biệt là giám sát quá trình vận hành bộ máy chính quyền theo mô hình chính quyền địa phương hai cấp; giám sát thực hiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
Đối với các doanh nghiệp: Sản xuất kinh doanh hiệu quả, bền vững, hợp pháp. Giải quyết nhiều việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động, đồng hành cùng đất nước thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, thi đua lập thành tích chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. Có nhiều sáng chế, phát minh, sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, biện pháp hợp lý hóa sản xuất, ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất kinh doanh, sử dụng năng lượng hiệu quả, sản xuất xanh - sạch - tiết kiệm. Nội bộ đoàn kết. Thực hiện tốt trách nhiệm xã hội, tham gia tích cực các hoạt động vì cộng đồng, đóng góp tích cực trong các phong trào thi đua do Thủ tướng Chính phủ phát động và các phong trào thi đua của bộ, ngành, địa phương:
Đối với cá nhân: Cán bộ, công chức, viên chức gương mẫu chấp hành tốt chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, có sáng kiến, giải pháp sáng tạo trong việc xây dựng, ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành, tổ chức thực hiện, kiểm tra, hướng dẫn việc thực hiện cơ chế, chính sách, quy định, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ đã đề ra tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng với phương châm “đổi mới tư duy, quyết tâm hành động, gương mẫu đi đầu, tận tâm cống hiến, kiến tạo phát triển, vì dân phục vụ”. Mọi người dân tiếp tục nêu cao lòng yêu nước, khát vọng cống hiến, đoàn kết một lòng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, ra sức thi đua lao động sản xuất, giữ gìn an ninh, trật tự xã hội và bảo vệ môi trường, bảo vệ độc lập, chủ quyền đất nước.
Hình thức khen thưởng: Huân chương Lao động; Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ; Bằng khen cấp bộ, cấp tỉnh; Giấy khen. Tiêu chuẩn khen thưởng: Căn cứ thành tích trong tổ chức, thực hiện Đợt thi đua, việc xét khen thưởng cho các tập thể, cá nhân tiêu biểu, xuất sắc được thực hiện theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng.
4. Trách nhiệm giải trình của cơ quan, cá nhân trong hoạt động công vụ
Trong thời gian qua, Đảng, Nhà nước đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tạo nhiều chuyển biến tích cực về trách nhiệm giải trình của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động công vụ. Tuy nhiên, nhận thức, trách nhiệm giải trình của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động công vụ còn nhiều hạn chế. Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc thực hiện trách nhiệm giải trình của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động công vụ, ngày 26/10/2025, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 53-CT/TW yêu cầu cấp ủy, tổ chức đảng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả một số nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm sau:
Tăng cường tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm, xây dựng văn hóa giải trình trong hoạt động công vụ. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, địa phương, cơ quan, đơn vị phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện nghiêm các quy định về trách nhiệm giải trình; coi đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng, thường xuyên, là thước đo bản lĩnh, đạo đức, năng lực và tinh thần dám chịu trách nhiệm của cán bộ, đảng viên. Gắn trách nhiệm giải trình với trách nhiệm nêu gương, với tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng, trở thành việc làm thường xuyên, từng bước hình thành văn hóa giải trình trong cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Quy định rõ trách nhiệm giải trình là một tiêu chí để đánh giá cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên hằng năm; kiên quyết đấu tranh, loại bỏ các biểu hiện né tránh, đùn đẩy, giải trình không đầy đủ, không trung thực trong hoạt động công vụ.
Rà soát, hoàn thiện thể chế, pháp luật về thực hiện trách nhiệm giải trình, bảo đảm đồng bộ, thống nhất, khả thi, phù hợp với thực tiễn và tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả. Sửa đổi pháp luật phòng, chống tham nhũng, trong đó quy định rõ các nguyên tắc, đối tượng, nội dung, hình thức, trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân và cơ chế giám sát, xử lý các sai phạm về thực hiện trách nhiệm giải trình trong hoạt động công vụ. Hoàn thiện pháp luật về tư pháp, khiếu nại, tố cáo, tiếp công dân, đất đai, quy hoạch, môi trường, đầu tư, xây dựng, quản lý, sử dụng tài sản công, tài chính công, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin, quyền yêu cầu giải trình của báo chí, người dân, doanh nghiệp; trách nhiệm giải trình của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong hoạt động công vụ.
Xây dựng bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả thực hiện trách nhiệm giải trình cụ thể cho từng ngành, lĩnh vực, gắn với mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp. Rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định về kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, bảo đảm xử lý nghiêm minh, đồng bộ các vi phạm về trách nhiệm giải trình. Nghiên cứu, xây dựng Quy định về thực hiện trách nhiệm giải trình trong Đảng để bảo đảm đồng bộ, thống nhất thực hiện trong cả hệ thống chính trị.
Nâng cao chất lượng, tạo chuyển biến rõ rệt về thực hiện trách nhiệm giải trình, gắn với kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực đối với các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến người dân, doanh nghiệp, những lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, nhất là tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình trong công tác cán bộ, xây dựng chính sách, pháp luật, thủ tục hành chính, tư pháp, đất đai, môi trường, quy hoạch, xây dựng, quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công... Các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị chủ động rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy chế, quy trình, quy định của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình về trách nhiệm giải trình; tiếp nhận và kịp thời giải thích, làm rõ các vấn đề người dân, doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức kiến nghị, phản ánh, yêu cầu giải trình; chủ động trao đổi, đối thoại trực tiếp với người dân, doanh nghiệp để giải quyết những vấn đề bức xúc ngay từ cơ sở, không để phát sinh khiếu nại, tố cáo kéo dài, vượt cấp.
Tăng cường kiểm tra, giám sát, thanh tra việc chấp hành các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về thực hiện trách nhiệm giải trình của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động công vụ. Kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm các vi phạm, nhất là các hành vi né tránh, đùn đẩy trách nhiệm, chậm giải trình, giải trình không trung thực. Đưa nhiệm vụ kiểm tra, giám sát việc thực hiện trách nhiệm giải trình vào chương trình kiểm tra, giám sát hằng năm của cấp ủy, Ủy ban kiểm tra các cấp.
Phát huy và nâng cao hơn nữa vai trò giám sát của cơ quan và đại biểu dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên, báo chí về trách nhiệm giải trình của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động công vụ. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động chất vấn, trả lời chất vấn, giải trình tại Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp; hoàn thiện cơ chế bảo vệ, phát huy vai trò giám sát của Nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi để Nhân dân kiến nghị, phản ánh các vi phạm trong thực hiện trách nhiệm giải trình của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động công vụ. Tăng cường giám sát chuyên đề về trách nhiệm giải trình và việc thực hiện các kiến nghị, cam kết sau giải trình, gắn với việc trả lời kiến nghị của cử tri, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về trách nhiệm giải trình, bảo đảm kết nối, liên thông từ Trung ương đến cơ sở. Xây dựng Cổng thông tin điện tử chuyên biệt để phục vụ giải trình và tiếp nhận, phản hồi yêu cầu giải trình của Nhân dân, doanh nghiệp; kịp thời thông tin, giải trình về chủ trương, chính sách, quyết sách mới, về các vấn đề phức tạp, nhạy cảm, dư luận xã hội quan tâm.
Về tổ chức thực hiện, Bộ Chính trị, Ban Bí thư yêu cầu các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc Chỉ thị này trong toàn đảng bộ. Xây dựng kế hoạch, cụ thể, xác định rõ trách nhiệm và thường xuyên kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc thực hiện. Đảng ủy Quốc hội, Đảng ủy Chính phủ và các cấp ủy, tổ chức đảng có liên quan tập trung lãnh đạo, chỉ đạo khẩn trương rà soát, sửa đổi, bổ sung pháp luật về phòng, chống tham nhũng và pháp luật liên quan đến thực hiện trách nhiệm giải trình, bảo đảm đồng bộ, thống nhất, khả thi, phù hợp với thực tiễn và tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả.
Đảng ủy Chính phủ chỉ đạo xây dựng bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả thực hiện trách nhiệm giải trình và xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về thực hiện trách nhiệm giải trình, bảo đảm thống nhất, liên thông từ Trung ương đến cơ sở. Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương chỉ đạo đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và Nhân dân về trách nhiệm giải trình của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động công vụ. Ban Tổ chức Trung ương ban hành hướng dẫn, quy định việc đưa tiêu chí về thực hiện trách nhiệm giải trình vào đánh giá, xếp loại, thi đua, khen thưởng cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên hằng năm.
Ủy ban Kiểm tra Trung ương chỉ đạo rà soát, tham mưu sửa đổi, bổ sung các quy định về kiểm tra, giám sát, xử lý kỷ luật đối với các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, người đứng đầu vi phạm về thực hiện trách nhiệm giải trình; hướng dẫn việc đưa nội dung kiểm tra, giám sát việc lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện trách nhiệm giải trình vào chương trình kiểm tra, giám sát hằng năm của các cấp ủy, Ủy ban kiểm tra các cấp. Ban Nội chính Trung ương chủ trì, phối hợp với Ủy ban Kiểm tra Trung ương và các cơ quan có liên quan nghiên cứu, tham mưu Bộ Chính trị ban hành Quy định về thực hiện trách nhiệm giải trình trong Đảng; theo dõi, kiểm tra, giám sát, đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc thực hiện Chỉ thị, báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Chỉ thị này được phổ biến đến chi bộ để thực hiện.
5. Thực hiện giao dịch điện tử trong hoạt động của cơ quan, tổ chức đảng
Ngày 22/10/2025, Ban Bí thư Quy định số 379-QĐ/TW quy định về thực hiện giao dịch điện tử trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức đảng, trong đó nêu rõ việc thực hiện giao dịch điện tử tuân thủ các nguyên tắc chung sau:
Nội dung giao dịch điện tử và việc thực hiện giao dịch điện tử trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức đảng, đảng viên phải bảo đảm tuân thủ các quy định của Luật Giao dịch điện tử, Luật Bảo vệ bí mật nhà nước, Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân và các quy định pháp luật khác có liên quan, đồng thời phù hợp với Quy định này và các quy định khác của Đảng có liên quan. Bắt buộc sử dụng văn bản điện tử trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức đảng; chỉ chuyển đổi hình thức từ văn bản điện tử sang văn bản giấy trong các trường hợp thật sự cần thiết hoặc theo các quy định của Đảng và Nhà nước.
Việc thực hiện giao dịch điện tử có nội dung thuộc danh mục bí mật nhà nước phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước và pháp luật về cơ yếu. Dữ liệu trong giao dịch điện tử cần được quản lý theo nguyên tắc mở, liên thông, chia sẻ có kiểm soát; bảo đảm tính thống nhất và đồng bộ trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức đảng; tuân thủ Khung kiến trúc dữ liệu quốc gia tổng thể, Khung quản trị, quản lý dữ liệu, Từ điển dữ liệu quốc gia và quy định về kết nối chia sẻ dữ liệu bắt buộc trong hệ thống chính trị; bảo đảm khai thác, sử dụng hiệu quả, đồng thời giữ vững an toàn, an ninh thông tin và đúng thẩm quyền.
Việc tạo lập, số hóa, truyền nhận, quản lý, lưu trữ trên môi trường điện tử phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước và pháp luật về cơ yếu, phải được mã hóa theo quy định. Trường hợp hệ thống gặp sự cố, cơ quan chủ quản hệ thống có trách nhiệm thông báo ngay; chủ trì, phối hợp với các đơn vị kỹ thuật chuyên trách để khắc phục trong thời gian sớm nhất. Trong thời gian gián đoạn, các hoạt động được tạm thời chuyển sang xử lý bằng văn bản giấy. Đơn vị kỹ thuật chuyên trách có trách nhiệm hỗ trợ số hóa lại dữ liệu đã xử lý bằng giấy để bảo đảm tính liên tục, toàn vẹn của thông tin.
Việc ứng dụng hệ thống thông minh tự động, trí tuệ nhân tạo trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức đảng phải đặt dưới sự giám sát của con người; mọi quyết định quan trọng do hệ thống đề xuất, đặc biệt là các quyết định liên quan đến công tác cán bộ, phải được người có thẩm quyền xem xét, thẩm định và phê duyệt; bảo đảm tính minh bạch, an toàn, bảo mật thông tin và tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ.
Quy định cũng nêu rõ các hành vi bị nghiêm cấm trong thực hiện giao dịch điện tử, bao gồm các hành vi sau: Cản trở việc lựa chọn, sử dụng giao dịch điện tử. Lợi dụng giao dịch điện tử để xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Truy nhập, can thiệp, thay đổi, xóa, hủy, sao chép, tiết lộ, hiển thị, di chuyển trái phép một phần hoặc toàn bộ dữ liệu, văn bản điện tử, nhật ký hệ thống. Tạo ra hoặc phát tán chương trình phần mềm độc hại hoặc tác động đến hạ tầng kỹ thuật nhằm gây rối loạn, thay đổi, phá hoại hoạt động của hệ thống thông tin phục vụ giao dịch điện tử.
Lợi dụng giao dịch điện tử để thực hiện, che giấu hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm kỷ luật đảng, vi phạm quy định về những điều đảng viên không được làm. Cung cấp thông tin không chính xác, giả mạo, mạo danh cơ quan, tổ chức, cá nhân khác để thực hiện giao dịch điện tử. Sử dụng chữ ký số không đúng mục đích. Tự ý can thiệp vào hạ tầng kỹ thuật, máy chủ, đường truyền nội bộ. Không tuân thủ quy trình bảo mật, sao lưu, phục hồi dữ liệu theo quy định; truy cập trái phép vào hệ thống giao dịch điện tử nội bộ của Đảng hoặc can thiệp vào hệ thống xử lý văn bản. Phá hoại, làm gián đoạn kết nối mạng nội bộ, mạng diện rộng của Đảng. Giả mạo chữ ký số của cơ quan, tổ chức, cá nhân khi thực hiện giao dịch điện tử. Các hành vi bị nghiêm cấm khác theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
6. Định hướng phát triển thị trường bán lẻ Việt Nam
Với mục tiêu phát triển thị trường bán lẻ văn minh, hiện đại, bền vững, gắn với định hướng phát triển thương mại trong nước; tuân thủ đúng các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên; phù hợp với xu thế phát triển của thương mại điện tử và kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế chia sẻ; thực hiện tốt chức năng kết nối giữa sản xuất với tiêu dùng; gia tăng sức mua trong nước đồng thời kích cầu tiêu thụ sản phẩm Việt Nam trên thị trường quốc tế; góp phần nâng cao giá trị và sức cạnh tranh của hàng hóa, tạo tiền đề để các doanh nghiệp bán lẻ tham gia sâu hơn vào thị trường bán lẻ thế giới.
Giai đoạn đến năm 2030, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng (chưa loại trừ yếu tố giá) tăng bình quân 11,0-11,5%/năm. Thương mại điện tử phát triển nhanh với hành lang pháp lý hoàn thiện, áp dụng công nghệ, hạ tầng kỹ thuật hiện đại cùng với phương tiện hỗ trợ đầy đủ, bảo đảm tính an toàn và thuận tiện cho doanh nghiệp và người tiêu dùng trong quá trình tham gia giao dịch. Doanh số thương mại điện tử tăng bình quân 15-20%/năm, chiếm 15-20% tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cả nước vào năm 2030. Phấn đấu khoảng 40-45% số doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia các sàn thương mại điện tử. Chính sách về phát triển thị trường bán lẻ từng bước được hoàn thiện; môi trường kinh doanh được cải thiện, hướng đến hình thành và phát triển thị trường cạnh tranh công bằng, minh bạch, thu hút được các nhà bán lẻ có năng lực và uy tín tham gia thị trường; khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam đổi mới sáng tạo, phát triển theo các loại hình bán lẻ hiện đại trên thế giới. Hạ tầng phục vụ bán lẻ được đầu tư phát triển, chú trọng nâng cấp hạ tầng khu vực vùng biên giới, nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo.
Giai đoạn 2031-2050, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng (chưa loại trừ yếu tố giá) tăng bình quân 10,0-10,5%/năm. Thương mại điện tử phát triển mạnh mẽ, đóng vai trò chủ đạo trong giao dịch thương mại. Doanh số thương mại điện tử tăng bình quân 13-15%/năm, chiếm 20-25% tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cả nước vào năm 2050. Phấn đấu trên 70% số doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động trong lĩnh vực thương mại tham gia các sàn thương mại điện tử. Chính sách về phát triển thị trường bán lẻ được hoàn thiện, hỗ trợ tối đa cho các doanh nghiệp bán lẻ trong nước, đồng thời phù hợp với các cam kết quốc tế; hình thành được một số thương hiệu bán lẻ lớn của Việt Nam, có năng lực cạnh tranh và uy tín trên thị trường trong và ngoài nước. Hạ tầng phục vụ bán lẻ trong nước phát triển theo hướng hiện đại, đồng bộ giữa khu vực thành thị với nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới và hải đảo; các cơ sở bán lẻ đều được ứng dụng công nghệ, số hóa các giao dịch mua bán; hàng hóa lưu thông qua hệ thống bán lẻ bảo đảm các tiêu chí về an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc và bảo vệ môi trường.
Chiến lược phát triển thị trường bán lẻ Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 được Thủ tướng phê duyệt bởi Quyết định số 2326/QĐ-TTg, ngày 21/10/2025 nêu rõ các định hướng phát triển như sau:
Khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia phát triển thị trường bán lẻ theo những hình thức và quy mô thích hợp; hình thành lực lượng phân phối nòng cốt trong nước thông qua những ưu đãi bước đầu về cơ chế, chính sách tài chính và đất đai. Hình thành các tập đoàn, doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực phân phối, chủ yếu là doanh nghiệp nội địa, bao gồm cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó xác định các doanh nghiệp tư nhân là lực lượng nòng cốt tạo nên động lực quan trọng, đóng góp vào sự phát triển của thị trường.
Đa dạng hóa các loại hình kinh doanh bán lẻ, nhất là những loại hình có khả năng gắn kết và thúc đẩy phát triển sản xuất trong nước phù hợp với quá trình hội nhập của Việt Nam. Thực hiện định hướng chuyển dịch hệ thống phân phối bán lẻ sang các loại hình phân phối hiện đại như siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng tiện lợi, cửa hàng chuyên doanh, bảo đảm sự phát triển hài hòa giữa các loại hình và phù hợp với từng phân khúc thị trường trước xu hướng gia tăng áp lực cạnh tranh với các nhà bán lẻ nước ngoài. Phát triển kết hợp các loại hình kinh doanh bán lẻ hiện đại, loại hình đa kênh, thương mại điện tử với các loại hình bán lẻ truyền thống; loại hình bán lẻ hàng tồn kho kết hợp với khuyến mại kích cầu tiêu dùng; đầu tư phát triển các khu thương mại - dịch vụ tổng hợp với chợ truyền thống là hạt nhân kết hợp với đường phố thương mại, vừa mang tính hiện đại vừa giữ được nét văn hóa kinh doanh truyền thống. Phát triển các loại hình bán lẻ hiện đại, mở rộng và tăng cường quản lý các chuỗi cửa hàng bán lẻ, loại hình nhượng quyền của các thương hiệu Việt Nam và quốc tế, loại hình bán lẻ tập trung lớn do các tập đoàn, doanh nghiệp phân phối trong nước đầu tư.
Hình thành các chuỗi liên kết để kết nối sản xuất với phân phối hàng hóa, tập trung trước hết vào các chuỗi cung ứng hàng nông sản thực phẩm thiết yếu nhằm đảm bảo ổn định cung - cầu, quản lý có hiệu quả chất lượng và an toàn thực phẩm lưu thông trên thị trường; liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp bán lẻ với các nhà sản xuất trong việc tạo nguồn hàng ổn định với giá cả cạnh tranh, bảo đảm chất lượng, đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng. Tổ chức và vận hành hiệu quả hệ thống phân phối các nhóm hàng hóa thiết yếu trên thị trường; xây dựng và hình thành các chuỗi liên kết sản xuất và phân phối theo hướng bền vững, trong đó đẩy mạnh liên kết trong chuỗi cung ứng gắn với thực hiện tốt các quy định về chất lượng, an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc; phát triển chuỗi cung ứng các sản phẩm thân thiện với môi trường, được dán nhãn sinh thái... Phát triển các chuỗi liên kết theo phương thức nhượng quyền kinh doanh và các chuỗi liên kết tự nguyện của các siêu thị nhỏ, các cửa hàng chuyên doanh để tăng cường năng lực cạnh tranh. Với các chuỗi bán lẻ nhượng quyền, đẩy nhanh quá trình công nhận tác quyền, sáng chế, các thủ tục bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, đăng ký nhãn hiệu để tạo điều kiện cho các thương hiệu Việt mở rộng chuỗi trên thị trường nội địa và quốc tế.
Đối với các doanh nghiệp nhỏ, hợp tác xã thương mại, hộ kinh doanh cá thể và cá nhân kinh doanh, khuyến khích hình thành các chuỗi liên kết đơn ngành hoặc đa ngành, thiết lập các chuỗi liên kết dọc (liên kết hình thành chuỗi cung ứng của một hoặc một nhóm sản phẩm, hàng hóa) và liên kết ngang (giữa những doanh nghiệp cùng ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh), tăng cường liên kết chặt chẽ giữa các nhà sản xuất, nhà phân phối và nhà cung ứng dịch vụ hỗ trợ để tạo nguồn cung chất lượng cho thị trường bán lẻ. Đồng thời, đổi mới phương thức hoạt động phân phối theo hướng hiện đại, chuyên nghiệp, quảng bá và giới thiệu những sản phẩm đặc trưng, có thế mạnh của các địa phương, vùng miền (OCOP) với thị trường trong và ngoài nước; thúc đẩy các chủ thể tham gia vào chuỗi sản xuất và cung ứng hàng hóa, tăng cường kết nối giữa vùng sản xuất và thị trường tiêu thụ.
Tập trung phát triển mạnh các loại hình kinh doanh thương mại hiện đại như thương mại điện tử, sàn giao dịch điện tử dựa trên nền tảng số hóa; phát triển đa dạng các phương thức bán lẻ, trong đó đặc biệt chú trọng phương thức bán lẻ đa kênh (Omnichannel), bán lẻ qua điện thoại di động, truyền hình, qua các ứng dụng mạng xã hội dựa trên môi trường mạng internet... đáp ứng yêu cầu và xu hướng mua sắm của người tiêu dùng trong tương lai. Tăng cường công tác thống kê, nghiên cứu, phân tích và dự báo thị trường trên cơ sở ứng dụng số hóa, công nghệ trong kinh doanh bán lẻ; đề cao vai trò của thương mại điện tử với sự phát triển của phương thức giao dịch, phương thức thanh toán điện tử, bảo đảm an toàn và thuận tiện cho người tiêu dùng trong quá trình tham gia giao dịch thương mại điện tử.
Hoàn thiện khung pháp lý, có cơ chế thí điểm rõ ràng, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nghiên cứu và vận hành các sàn giao dịch điện tử dựa trên ứng dụng công nghệ tiên tiến, bảo đảm đối xử bình đẳng giữa các loại hình kinh doanh bán lẻ trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế về giao dịch thương mại điện tử. Đẩy mạnh phát triển các dịch vụ công phục vụ cho thương mại điện tử. Phát triển thị trường thương mại điện tử lành mạnh, có tính cạnh tranh và phát triển bền vững. Mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa thông qua ứng dụng thương mại điện tử; khuyến khích ứng dụng và hỗ trợ quá trình chuyển đổi số của doanh nghiệp; đẩy mạnh giao dịch thương mại điện tử khu vực biên giới và xuyên biên giới.
Giai đoạn từ nay đến năm 2030, phát triển đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng thương mại bán lẻ, trước mắt cần kết hợp hài hòa, hợp lý giữa kết cấu hiện đại và truyền thống, phù hợp với tính chất và trình độ, quy mô, triển vọng phát triển của từng địa bàn, khu vực thị trường. Phát triển trung tâm logistics cấp vùng, địa phương và chuyên dụng phù hợp với xu hướng phát triển thị trường, bảo đảm kết nối giao thông hiệu quả và cung cấp các dịch vụ logistics đáp ứng tốt nhu cầu sản xuất, lưu thông trong nước và hoạt động xuất nhập khẩu; nâng cấp, quy hoạch hệ thống kho bãi phù hợp, gần các tuyến đường giao thông, sân bay, cảng biển, cảng thủy nội địa nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển, trung chuyển hàng hóa; tăng cường kết nối hệ thống cảng, kho bãi, hải quan qua hệ thống logistics thông minh, số hóa thủ tục hải quan (VNACCS/VCIS) để nâng cao hiệu quả hoạt động logistics ở Việt Nam, tạo điều kiện cho luồng hàng hóa trên các tuyến vận tải đa phương thức dịch chuyển được dễ dàng, nhanh chóng với mức chi phí vận tải và dịch vụ logistics cạnh tranh trong khu vực và quốc tế.
7. Đảng viên tiên phong trong học tập kỹ năng số
Phần II: Bồi dưỡng các kỹ năng số cho đảng viên
7.1. Nhận thức số - Kỹ năng tư duy trong môi trường số
Nhận thức số là khả năng hiểu đúng bản chất, vai trò và tác động của chuyển đổi số đối với cá nhân, tổ chức và xã hội. Người có nhận thức số biết rằng chuyển đổi số không chỉ là số hóa văn bản hay ứng dụng phần mềm, mà là sự thay đổi toàn diện phương thức lãnh đạo, quản lý, điều hành và phục vụ. Đảng viên có nhận thức số vững vàng sẽ từ bỏ tư duy thụ động, ngại thay đổi, hình thành tinh thần cầu thị, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm.
Nhận thức số giúp cán bộ định vị đúng vai trò, lựa chọn công cụ phù hợp, tối ưu hóa thời gian, học hỏi kỹ năng mới và lan tỏa tinh thần đổi mới đến cộng đồng. Đặc biệt, đó còn là khả năng nhận diện đúng - sai, thật - giả trên không gian mạng, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Nâng cao nhận thức số chính là tiền đề để hình thành văn hóa số, với tinh thần minh bạch, cởi mở, trách nhiệm và học tập suốt đời.
7.2. Kỹ năng sử dụng các công cụ số cơ bản
Kỹ năng sử dụng công cụ số cơ bản là năng lực làm chủ các thiết bị thông minh, phần mềm văn phòng, công cụ quản trị và nền tảng giao tiếp trực tuyến. Đảng viên cần biết khai thác hiệu quả điện thoại thông minh, máy tính bảng, email, mạng xã hội chính thống, phần mềm quản trị công việc, và hệ thống văn phòng điện tử.
Việc nắm vững các ứng dụng văn phòng như Google Workspace, Microsoft 365 hay các công cụ họp trực tuyến như Zoom, Google Meet, Microsoft Teams là yêu cầu tối thiểu. Biết sử dụng Zalo OA hay các nền tảng tương tác hai chiều giữa cơ quan với nhân dân cũng là một minh chứng rõ nét cho năng lực công cụ số. Đây không chỉ là thao tác kỹ thuật, mà là biểu hiện của tư duy đổi mới, thái độ cầu thị và khả năng thích ứng trong công tác Đảng
7.3. Kỹ năng làm việc, trao đổi trong môi trường số
Trong môi trường số, phương thức tổ chức công việc và trao đổi thay đổi căn bản. Cán bộ, đảng viên cần thành thạo kỹ năng quản lý thời gian và công việc trên nền tảng số, biết sử dụng ứng dụng lập kế hoạch, nhắc việc và theo dõi tiến độ.
Đồng thời, cần nắm vững kỹ năng họp trực tuyến và làm việc từ xa, biết chuẩn bị nội dung, điều hành trên nền tảng số, ghi chép điện tử, duy trì kỷ luật và cam kết tiến độ. Kỹ năng cộng tác trên nền tảng số cũng rất quan trọng, giúp phối hợp nhóm hiệu quả, phân công nhiệm vụ rõ ràng, phản biện có văn hóa và báo cáo kịp thời.
Làm việc và trao đổi trong môi trường số không còn là lựa chọn, mà là tiêu chí đánh giá năng lực cán bộ trong bối cảnh hiện nay.
7.4. Kỹ năng tra cứu, khai thác và xử lý thông tin số
Thông tin là nguồn lực chiến lược trong thời đại số. Người đảng viên cần có khả năng tìm kiếm và khai thác thông tin chính thống trên các cổng điện tử của Chính phủ, Đảng, Quốc hội, bộ ngành, địa phương, cũng như các cơ sở dữ liệu quốc gia.
Cùng với đó, kỹ năng đánh giá độ tin cậy và kiểm chứng thông tin là yêu cầu cấp thiết, giúp phân biệt đúng - sai, tránh bị tác động bởi thông tin sai lệch, xuyên tạc, cắt ghép. Đặc biệt, cán bộ, đảng viên phải tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc bảo mật dữ liệu cá nhân và tài liệu công vụ, sử dụng mật khẩu mạnh, nền tảng bảo mật và các quy định pháp luật hiện hành.
Đây là năng lực gắn trực tiếp với bản lĩnh chính trị và tinh thần trách nhiệm của người đảng viên trong bảo vệ uy tín của tổ chức Đảng và hệ thống chính trị.
7.5. Tự học suốt đời và phát triển năng lực số cá nhân
Tự học suốt đời trong thời đại số là yêu cầu bắt buộc, không còn là lựa chọn cá nhân. Người đảng viên phải chủ động học tập trên các nền tảng học tập mở (MOOC), hệ thống quản lý học tập (LMS), Cổng học tập chuyển đổi số quốc gia, Học viện Chuyển đổi số Việt Nam và các nền tảng quốc tế uy tín.
Việc học cần gắn với nhu cầu công tác, lộ trình nghề nghiệp và yêu cầu thực tiễn, hình thành kỷ luật tự học, phân bổ thời gian hợp lý, kiên trì theo đuổi mục tiêu. Mỗi bước tiến trong năng lực số cá nhân sẽ góp phần trực tiếp vào nâng cao chất lượng công tác chung của tổ chức Đảng.
7.6. Kỹ năng an toàn - bảo mật số
Trong không gian số, an toàn và bảo mật thông tin là yêu cầu hàng đầu. Đảng viên cần nắm vững kỹ năng quản lý mật khẩu, xác thực hai yếu tố, bảo mật email công vụ, tài khoản lưu trữ, và tuyệt đối không chia sẻ dữ liệu mật trên nền tảng không chính thức.
Cùng với đó, phải rèn luyện kỹ năng nhận diện tấn công mạng, cảnh giác trước email giả mạo, tin nhắn lừa đảo, ứng dụng không rõ nguồn gốc. Đặc biệt, đảng viên phải xây dựng văn hóa mạng văn minh, có trách nhiệm, giữ gìn bản lĩnh chính trị, không phát ngôn, chia sẻ, bình luận tùy tiện gây ảnh hưởng đến uy tín tổ chức.
An toàn số không chỉ bảo vệ cá nhân mà còn bảo vệ cả hệ thống. Mỗi đảng viên chính là một mắt xích trong an ninh thông tin quốc gia, thể hiện phẩm chất trung thành, kỷ luật, bản lĩnh và tận tụy trong kỷ nguyên số.
8. Quy hoạch thủy lợi lưu vực sông Cửu Long
Quy hoạch thủy lợi lưu vực sông Cửu Long thời kỳ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 được phê duyệt bởi Quyết định số 2307/QĐ-TTg, ngày 17/10/2025. Theo phê duyệt, phạm vi quy hoạch gồm toàn bộ địa giới hành chính của các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long gồm thành phố Cần Thơ và các tỉnh: Vĩnh Long, Cà Mau, An Giang, Đồng Tháp và một phần tỉnh Tây Ninh, với diện tích khoảng 4 triệu ha (không bao gồm các đảo).
Mục tiêu nhằm chủ động điều tiết nguồn nước, thích ứng với phát triển thượng nguồn và biến đổi khí hậu để cấp nước, tiêu, thoát nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, tạo nguồn cấp nước bền vững cho dân sinh và các ngành kinh tế; đáp ứng yêu cầu chuyển đổi mô hình sản xuất một cách linh hoạt; nâng cao năng lực chủ động phòng, chống thiên tai, sẵn sàng ứng phó với trường hợp bất lợi nhất; đáp ứng yêu cầu phục vụ phát triển kinh tế - xã hội bền vững, bảo vệ môi trường; góp phần bảo đảm an ninh nguồn nước, giữ vững quốc phòng, an ninh.
Phấn đấu thực hiện đến năm 2030, tưới, cấp nước: Bảo đảm cấp và tạo nguồn cấp nước sinh hoạt cho khoảng 17-18 triệu người; tạo nguồn cấp nước cho các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao từ các hệ thống công trình thủy lợi. Bảo đảm cấp nước chủ động cho sinh hoạt nông thôn và sản xuất nông nghiệp trong trường hợp hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn tương đương đợt hạn năm 2015-2016 tại đồng bằng sông Cửu Long, đến năm 2030 giải quyết dứt điểm nước sinh hoạt cho người dân nông thôn vùng ảnh hưởng hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn.
Nâng cấp, sửa chữa, xây dựng mới các công trình thủy lợi và hoàn thiện hệ thống kênh, rạch, kết hợp với giao thông nội đồng để chủ động tưới, tiêu, điều tiết nước mặn, ngọt cho một triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long,... Chủ động tiêu, thoát nước ra sông trục chính, tăng diện tích tiêu bằng động lực, đảm bảo tiêu, thoát nước ở vùng thấp trũng phục vụ dân sinh, nông nghiệp với tần suất từ 5% đến 10%; đáp ứng yêu cầu tiêu, thoát cho khu đô thị, công nghiệp; tiêu thoát chủ động cho 1,6 triệu ha diện tích lúa 2-3 vụ, 0,4 - 0,45 triệu ha cây ăn trái, 0,21 triệu ha cây hàng năm, 0,8 triệu ha nuôi trồng thủy sản.
Phòng, chống ngập úng với tần suất 1% cho các đô thị thuộc các tỉnh, thành phố: Cần Thơ, Cà Mau, Vĩnh Long, An Giang, Đồng Tháp, dành không gian chứa nước từ 7-10% diện tích đất phục vụ chống ngập cho các đô thị, kết hợp tạo cảnh quan môi trường, sinh thái. Chủ động kiểm soát mặn khoảng 1,35 triệu ha đất sản xuất nông nghiệp theo các điểm khống chế mặn từ 1g/l đến 4g/l trong vùng.
Đến năm 2050, bảo đảm chủ động nguồn nước phục vụ sản xuất và dân sinh trong mọi tình huống bất lợi, giảm thiểu thiệt hại cho đời sống và sản xuất của người dân do tình trạng hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn gây ra ở mức thấp nhất. Bảo đảm đầu tư đồng bộ, khép kín các hệ thống công trình thủy lợi từ đầu mối đến nội đồng, nâng dần mức đảm bảo cấp nước, tiêu thoát nước, phòng chống lũ của các hệ thống thủy lợi. Hoàn thiện các hệ thống tích trữ, điều hòa, liên kết nguồn nước liên vùng, đảm bảo chủ động kiểm soát lũ, kiểm soát mặn, hạn chế thiên tai do nước gây ra. Giải quyết cơ bản hiện tượng ngập úng do lũ, mưa và triều cường cho các khu vực đô thị bằng các giải pháp thủy lợi.
Để đạt được các mục tiêu trên, cần triển khai các giải pháp như: Phân vùng quy hoạch và điểm khống chế mặn; giải pháp công trình; giải pháp phi công trình.
Vùng sinh thái ngọt, diện tích 1,9 triệu ha bao gồm một phần của hệ thống thủy lợi Đồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên, Bắc Vàm Nao, Nam Vàm Nao, vùng Tây sông Hậu, Bắc Vĩnh An, U Minh Hạ, thuộc một phần các tỉnh, thành phố: Đồng Tháp, An Giang, Vĩnh Long, Tây Ninh, Cần Thơ, Cà Mau. Định hướng phát triển thủy lợi cho vùng này phục vụ cho các mô hình sản xuất: cây ăn trái, lúa, rau màu và thủy sản nước ngọt. Vùng sinh thái ngọt - lợ, diện tích 1,35 triệu ha bao gồm các hệ thống thủy lợi Nhật Tảo - Tân Trụ, Gò Công, Bắc Bến Tre, Nam Bến Tre, Nam Măng Thít, Long Phú - Tiếp Nhật, U Minh Thượng, một phần của Tứ Giác Long Xuyên, thuộc một phần các tỉnh, thành phố: An Giang, Cà Mau, Cần Thơ, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Tây Ninh. Định hướng phát triển thủy lợi cho vùng này phục vụ cho các mô hình sản xuất: cây ăn trái, lúa, tôm - lúa. Các giải pháp thủy lợi cần linh hoạt phục vụ chuyển đổi sản xuất, phù hợp với điều kiện nguồn nước.
Vùng sinh thái mặn, diện tích 0,75 triệu ha vùng ven biển thuộc các tỉnh/thành phố: An Giang, Cà Mau, Cần Thơ, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Tây Ninh. Định hướng phát triển thủy lợi cho vùng này tập trung phục vụ cho nuôi trồng thủy sản với các hình thức: thâm canh, quảng canh cải tiến, tôm - rừng.
Điểm khống chế mặn trên dòng chính với độ mặn 1g/l phục vụ cấp nước sinh hoạt và cây ăn trái: trên sông Vàm Cỏ Tây tại cống Bắc Đông; trên sông Tiền tại đầu kênh Nguyễn Tấn Thành; trên sông Hàm Luông tại An Hiệp; trên sông Cổ Chiên tại vị trí hợp lưu với sông Măng Thít; trên sông Hậu tại kênh Cái Cui; trên sông Cái Lớn tại cầu Cái Tư. Điểm khống chế mặn trên dòng chính với độ mặn 4g/l ngưỡng mặn tối đa phục vụ sản xuất lúa: trên sông Tiền tại cống Xuân Hòa; trên sông Hàm Luông tại Mỹ Hóa; trên sông Cổ Chiên tại cống Vũng Liêm; trên sông Hậu tại kênh Cái Côn; trên sông Vàm Cỏ Tây tại Tân An.
Tập trung giải pháp kiểm soát lũ tràn biên giới từ Campuchia vào Việt Nam tại vùng Tứ Giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười; lũ trên dòng chính sông Tiền, sông Hậu; tăng khả năng tiêu, thoát lũ nội đồng. Cấp nước, tiêu, thoát nước: Tăng cường cấp nước từ sông chính vào các khu vực xa sông gần biển, các khu vực thiếu nước ngọt; xây dựng hệ thống cống lớn đầu kênh, cống cửa sông, cống dưới đê thành các ô bao lớn để chủ động chống ngập úng, tiêu, thoát nước; nạo vét kênh, rạch, tăng khả năng cấp, tiêu, thoát nước. Vùng sinh thái ngọt - lợ thực hiện cấp nước, tiêu, thoát nước: Hoàn thiện khép kín hệ thống thủy lợi chủ động cấp, tiêu, thoát nước phục vụ dân sinh, sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản và cây ăn trái.
Hoàn thiện, khép kín các hệ thống thủy lợi, xây dựng các công trình kiểm soát mặn. Vùng sinh thái mặn thực hiện cấp nước, tiêu, thoát nước: Hoàn thiện hệ thống thủy lợi để chủ động điều tiết nguồn nước mặn - ngọt, kiểm soát triều cường; hoàn thiện các ô bao thủy lợi để bảo vệ khu vực sản xuất; tăng cường trữ nước trong hệ thống kênh, rạch; cân đối, điều hòa nguồn nước giữa các khu vực; đề xuất giải pháp cấp nước mặn từ biển. Tiếp tục đầu tư xây dựng củng cố, nâng cấp các tuyến đê biển, hệ thống kè chắn sóng gây bồi, tạo bãi kết hợp với trồng rừng ngập mặn bảo vệ đê biển, bờ biển...
9. Đầu tư phát triển mạng lưới trường, lớp, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, đồ dùng, đồ chơi cho trẻ em từ 3-5 tuổi
Ngày 20/10/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 277/2025/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 218/2025/QH15 ngày 26/6/2025 của Quốc hội về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em từ 3 đến 5 tuổi. Nghị định gồm 05 chương, 29 điều quy định chi tiết thi hành Nghị quyết số 218/2025/QH15 ngày 26/6/2025 của Quốc hội về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em từ 3 đến 5 tuổi, gồm các nội dung: đầu tư phát triển mạng lưới trường, lớp, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, đồ dùng, đồ chơi; chính sách phát triển đội ngũ và hỗ trợ trẻ em; lộ trình đạt chuẩn, tiêu chuẩn công nhận, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, đồ dùng, đồ chơi và quy trình, thủ tục kiểm tra công nhận phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em từ 3-5 tuổi.
Về đầu tư phát triển mạng lưới trường, lớp, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, đồ dùng, đồ chơi, Nghị định nêu rõ: Tăng cường nguồn lực từ ngân sách trung ương và ngân sách địa phương đầu tư cơ sở vật chất. Khuyến khích thu hút các nguồn lực của xã hội đầu tư cơ sở vật chất phát triển giáo dục mầm non. Đầu tư phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục mầm non bảo đảm đủ trường lớp, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, đồ dùng, đồ chơi thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em từ 3-5 tuổi. Nâng chuẩn cơ sở giáo dục mầm non theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, đáp ứng yêu cầu thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em từ 3-5 tuổi.
Ưu tiên dành quỹ đất sạch, cho phép chuyển đổi linh hoạt mục đích sử dụng đất sang đất xây dựng cơ sở giáo dục mầm non; tập trung giải phóng mặt bằng, giao đất sạch cho các dự án giáo dục mầm non. Không thu tiền sử dụng đất, giảm tiền thuê đất, tiền thuế đất đối với các cơ sở giáo dục mầm non. Không áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp đối với cơ sở giáo dục mầm non công lập, cơ sở giáo dục mầm non tư thục hoạt động không vì lợi nhuận. Ưu tiên dành trụ sở cơ quan nhà nước dôi dư sau sắp xếp cho các cơ sở giáo dục mầm non; cho phép áp dụng hình thức cho thuê công trình thuộc sở hữu nhà nước đối với cơ sở giáo dục mầm non tư thục.
Ưu tiên đầu tư kinh phí của Trung ương và địa phương từ các chương trình, dự án bảo đảm đến năm 2030 có 100% các cơ sở giáo dục mầm non công lập, cơ sở giáo dục mầm non thuộc lực lượng vũ trang ở các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, xã thuộc vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, biên giới, hải đảo, bãi ngang, ven biển, khu đông dân cư, địa bàn có khu, cụm công nghiệp, khu chế xuất đủ trường lớp, bảo đảm 01 phòng học/lớp mẫu giáo, 100% phòng học kiên cố, có đủ các phòng chức năng, thư viện trường mầm non, đủ đồ chơi ngoài trời, đồ chơi trong lớp, thiết bị dạy học, đủ bếp ăn, nhà vệ sinh và công trình nước sạch theo quy định.
Cơ sở giáo dục mầm non công lập, cơ sở giáo dục mầm non thuộc lực lượng vũ trang tại xã khu vực III, khu vực II, khu vực I, xã có thôn đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo theo quy định của cấp có thẩm quyền, có trẻ em từ 3-5 tuổi học và ăn, ngủ trưa tại cơ sở giáo dục mầm non (sau đây gọi là trẻ em bán trú) được hưởng các chính sách sau:
Được hỗ trợ tiền để mua giấy, truyện tranh, sáp màu, bút chì, đồ chơi và các đồ dùng, học liệu học tập khác; chăn, màn và các đồ dùng cá nhân cho trẻ em từ 3-5 tuổi bán trú với mức kinh phí là 1.350.000 đồng/trẻ em/năm học. Được hỗ trợ tiền điện, nước phục vụ học tập và sinh hoạt của trẻ em từ 3-5 tuổi bán trú với định mức là 5KW điện/tháng/trẻ em và 01m3 nước/tháng/trẻ em theo giá quy định tại địa phương và được hưởng không quá 9 tháng/năm học. Nơi chưa có điều kiện cung cấp các dịch vụ điện, nước hoặc bị mất điện, nước thì nhà trường được sử dụng kinh phí để mua thiết bị thắp sáng và nước sạch cho trẻ em.
Được hỗ trợ kinh phí trông trưa đối với trẻ em từ 3-5 tuổi: Mỗi nhóm 25 trẻ em từ 3-4 tuổi, trong đó ít nhất có 8 trẻ em từ 3-4 tuổi bán trú thì được hưởng 01 định mức; mỗi nhóm 30 trẻ em từ 4-5 tuổi, trong đó ít nhất có 10 trẻ em từ 4-5 tuổi bán trú thì được hưởng 01 định mức là 700.000 đồng/tháng/nhóm trẻ em và được hưởng không quá 9 tháng/năm học. Số dư từ 50% trở lên so với số trẻ em từ 3-5 tuổi và số trẻ em từ 3-5 tuổi bán trú của mỗi nhóm thì được tính 01 định mức. Được ngân sách nhà nước hỗ trợ kinh phí chi trả cho nhân viên nấu ăn. Định mức chi trả được tính trên số lượng trẻ em từ 3-5 tuổi bán trú, tối thiểu bằng 3.900.000 đồng/1 tháng/45 trẻ em, số dư từ 20 trẻ em trở lên được tính thêm một lần mức hỗ trợ. Mỗi cơ sở giáo dục mầm non được hưởng không quá 05 lần mức hỗ trợ nêu trên/1 tháng và không quá 9 tháng/1 năm học.
Cơ sở giáo dục mầm non độc lập, cơ sở giáo dục mầm non thuộc lực lượng vũ trang ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, biên giới, hải đảo, bãi ngang, ven biển, khu đông dân cư, địa bàn có khu, cụm công nghiệp, khu chế xuất thuộc loại hình dân lập, tư thục đã được cấp có thẩm quyền cấp phép thành lập theo đúng quy định thực hiện nhiệm vụ nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em từ 3-5 tuổi được hỗ trợ trang bị cơ sở vật chất 1 lần, bao gồm: trang bị đồ dùng, đồ chơi, thiết bị dạy học theo danh mục quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo và hỗ trợ kinh phí sửa chữa cơ sở vật chất để phục vụ trực tiếp cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ em. Mức hỗ trợ tối thiểu là 50.000.000 đồng/cơ sở giáo dục mầm non độc lập.
Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương