THÔNG TIN NỘI BỘ

http://noibo.kiengiang.dcs.vn


Thông tin trong nước (số tháng 8/2025)

Tổng Bí thư Tô Lâm chủ trì Phiên họp Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Ảnh: TL

Tổng Bí thư Tô Lâm chủ trì Phiên họp Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Ảnh: TL

1. Chỉ đạo của Tổng Bí thư về các nhiệm vụ phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số 6 tháng cuối năm 2025
Theo báo cáo của Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, qua 6 tháng triển khai, Nghị quyết số 57-NQ/TW  đã tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động trong toàn hệ thống chính trị. Quốc hội đã thông qua hai luật quan trọng, có tính nền tảng, là Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo và Luật Công nghiệp Công nghệ số, đặt nền móng pháp lý mới cho phát triển các lĩnh vực công nghệ mũi nhọn như trí tuệ nhân tạo, bán dẫn, dữ liệu lớn. Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật quan trọng (16 nghị định, 1 nghị quyết), trong đó có các nghị định về cải cách thủ tục hành chính một cửa, một cửa liên thông và phân cấp, phân quyền phù hợp với mô hình tổ chức bộ máy chính quyền hai cấp.
Ban Chỉ đạo đã ban hành và tổ chức thực hiện hai kế hoạch lớn, có ý nghĩa đặc biệt: Kế hoạch hành động chiến lược (Kế hoạch số 01), Kế hoạch số 02-KH/BCĐTW; đã đưa vào vận hành Hệ thống giám sát, đánh giá thực hiện Nghị quyết 57 và Hệ thống tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị, sáng kiến, giải pháp khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số tạo sự liên kết giữa các hệ thống và bước đầu hình thành nền tảng quản trị dựa trên dữ liệu thời gian thực. Ban Bí thư cùng Văn phòng Trung ương Đảng triển khai phần mềm quản lý văn bản, phòng họp không giấy, kết nối đến tận cấp xã, tạo ra bước phát triển mới trong hiện đại hóa hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng.
Chính phủ đã ban hành Danh mục công nghệ chiến lược, xác định 11 nhóm công nghệ có vai trò then chốt trong quá trình phát triển nhanh, bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Hệ sinh thái khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số tiếp tục phát triển mạnh mẽ, với 858 doanh nghiệp khoa học - công nghệ, 45 doanh nghiệp công nghệ cao và trên 73.000 doanh nghiệp công nghệ số đang hoạt động. Bộ Khoa học và Công nghệ đã thu hút, tập hợp 277 chuyên gia tham gia các chương trình trọng điểm về trí tuệ nhân tạo, góp phần phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho các lĩnh vực chiến lược. Trong 6 tháng đầu năm có sự đồng hành, tham gia mạnh mẽ của các doanh nghiệp công nghệ lớn trong nước. Đây là nét mới, cho thấy Nghị quyết 57 không chỉ là việc của Nhà nước mà đã thực sự lan tỏa ra xã hội, cộng đồng doanh nghiệp, tạo thành một phong trào xã hội rộng lớn, tạo thêm nguồn lực và động lực triển khai hiệu quả các nhiệm vụ.
Bên cạnh kết quả nổi bật, việc triển khai Nghị quyết 57 vẫn còn một số hạn chế: Thể chế, chính sách trên nhiều lĩnh vực chưa đồng bộ; hạ tầng số và dữ liệu quốc gia còn phân tán; việc kết nối, chia sẻ dữ liệu còn hạn chế; nguồn nhân lực chất lượng cao còn thiếu hụt, nhất là trong các ngành công nghệ mũi nhọn,…
Tại Hội nghị sơ kết công tác 6 tháng đầu năm 2025, triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2025 (ngày 2/7), Tổng Bí thư Tô Lâm yêu cầu:
Người đứng đầu các ban, bộ, ngành, địa phương phải tiếp tục nâng cao tinh thần trách nhiệm, quyết tâm chính trị cao, kiên quyết, kiên trì, kiên định, làm bằng được để củng cố niềm tin của toàn xã hội. Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương chủ trì, phối hợp với các cơ quan truyền thông xây dựng chương trình truyền thông sâu rộng về nội dung đột phá của Luật Khoa học Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, nhất là cơ chế chấp nhận rủi ro và thương mại hóa; vai trò của nền tảng dữ liệu trong việc thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện; đổi mới trong dịch vụ công, ứng dụng công nghệ số,… nhằm củng cố niềm tin trong giới khoa học, cộng đồng doanh nghiệp và người dân.
Các bộ, cơ quan khẩn trương xây dựng, chuẩn bị văn bản dưới luật; rà soát, hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành để bảo đảm việc thực hiện dịch vụ công trực tuyến toàn trình, hiệu quả, thực chất; nghiên cứu Kế hoạch hành động chiến lược và hướng dẫn thực thi để cụ thể hóa thành kế hoạch hành động, chương trình, dự án của cơ quan mình, lồng ghép vào các Hệ thống chiến lược và Sáng kiến đột phá đã được xác định; chủ động đề xuất các dự án, nhiệm vụ theo đúng quy trình và biểu mẫu quy định; thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo, cung cấp dữ liệu lên hệ thống chung; bố trí nguồn lực, chỉ đạo quyết liệt việc triển khai các nhiệm vụ thuộc thẩm quyền; xây dựng tiêu chí, quy chế quản lý, chế độ làm việc, đãi ngộ và quy trình tuyển dụng tổng công trình sư, kiến trúc sư trưởng triển khai các hệ thống chiến lược, các sáng kiến đột phá; nghiên cứu, đề xuất cơ chế khuyến khích thành lập doanh nghiệp khởi nghiệp triển khai sản phẩm nghiên cứu trong các viện nghiên cứu, trường đại học; thiết kế chương trình kết nối thực chất giữa nhà khoa học, doanh nghiệp giúp thương mại hóa sản phẩm khoa học và công nghệ; xây dựng phương án tổ chức, sắp xếp lại các tổ chức khoa học và công nghệ, đầu tư phát triển các tổ chức nghiên cứu mạnh; phối hợp với các bộ, ngành, địa phương đánh giá toàn diện hệ thống phòng thí nghiệm trên phạm vi cả nước.
Rà soát công tác hoạch định chính sách, đầu tư, chia sẻ và khai thác các phòng thí nghiệm bảo đảm tránh trùng lặp và lãng phí nguồn lực; thành lập tổ công tác liên ngành để hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam trong việc tìm kiếm, đàm phán, mua lại các công ty công nghệ nhỏ ở nước ngoài có các sở hữu trí tuệ hoặc bí quyết công nghệ quan trọng; nghiên cứu, thúc đẩy ứng dụng công nghệ chiến lược trong Danh mục Công nghệ chiến lược, như: Trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, chuỗi khối, robot, bán dẫn, vật liệu mới, công nghệ y - sinh học, an ninh mạng,... trong các ngành, lĩnh vực quản lý; khẩn trương hoàn thành xây dựng, đưa vào khai thác, sử dụng Trung tâm dữ liệu quốc gia. Các bộ, cơ quan ngang bộ, uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đẩy mạnh kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin; tái cấu trúc quy trình thủ tục hành chính, tái sử dụng thông tin, dữ liệu để cung cấp dịch vụ công trực tuyến thuận tiện cho người dân, doanh nghiệp, phát triển kinh tế - xã hội và quốc phòng, an ninh.
Tiếp tục triển khai hạ tầng số, phủ sóng 5G toàn quốc gắn với việc thúc đẩy triển khai Internet vệ tinh; khẩn trương khắc phục tình trạng thôn, bản lõm sóng, thiếu điện; bảo đảm nguồn năng lượng điện ổn định, đáp ứng yêu cầu cho chuyển đổi số quốc gia. Các tỉnh ủy, thành ủy chỉ đạo bố trí nguồn lực tài chính, bảo đảm đường truyền mạng thông suốt đến cấp xã, trang thiết bị đầu cuối, nhân lực phục vụ hoạt động chuyển đổi số tại địa phương; khẩn trương xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách thu hút nguồn nhân lực, nhân tài khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số trong và ngoài nước, nhất là nhân lực chất lượng cao trong các ngành công nghệ mũi nhọn (AI, bán dẫn, vật liệu mới,…); xây dựng Đề án phát triển, trọng dụng nhân tài, nhất là chuyên gia đầu ngành phục vụ phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia; triển khai Chiến lược thu hút nhân tài đến năm 2030, tầm nhìn 2050.
Ưu tiên các dự án trọng điểm, liên ngành, liên vùng, có tính đột phá, lan tỏa; ưu tiên bố trí đủ nguồn lực, tập trung cho nhiệm vụ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số trọng điểm, có tính đột phá, lan tỏa, tránh dàn trải, hình thức; ưu tiên dự án chuyển đổi số phục vụ mô hình hành chính mới, nhất là các sáng kiến đột phá và dự án đặc biệt quan trọng trong Kế hoạch hành động chiến lược; quan tâm đến công tác bảo đảm an ninh, an toàn, bảo mật, bảo vệ dữ liệu quốc gia, bảo vệ dữ liệu cá nhân, bảo đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ của khoa học, công nghệ. Mọi cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, người dân phải nắm được những nguyên tắc để chấp hành pháp luật; vận hành hiệu quả 3 nền tảng số phục vụ triển khai Nghị quyết 57.
2. Kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công
Nhằm kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước, tăng cường nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, ngăn ngừa, hạn chế nguy cơ tiêu cực, tham nhũng trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công, Nghị quyết số 193/NQ-CP, ngày 27/6/2025 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Quy định số 189-QĐ/TW, ngày 8/10/2024 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công đề ra một số nhiệm vụ, giải pháp sau:
Quán triệt, phổ biến đầy đủ các nguyên tắc, nội dung, phương thức, trách nhiệm kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công và hoạt động khác có liên quan; những hành vi lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn, lạm quyền, tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo Quy định số 189-QĐ/TW và các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước có liên quan. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, thành viên tập thể lãnh đạo, người có thẩm quyền trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành nhằm thực hiện kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công.
Tập trung xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật và tổ chức thực hiện nghiêm các quy định pháp luật về công tác quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công; rà soát, sửa đổi, bổ sung quy chế làm việc, quy định, quy trình nghiệp vụ, chuẩn mực đạo đức, quy tắc ứng xử trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công.  Trong đó, rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành các văn bản pháp luật liên quan đến quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công, bảo đảm chặt chẽ, đồng bộ, thống nhất với Quy định số 189-QĐ/TW và các quy định có liên quan của Đảng, không để sơ hở để bị lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn, lạm quyền, tham nhũng, tiêu cực.
Tiếp tục xây dựng, ban hành và nâng cao hiệu lực của các quy định pháp luật về tổ chức, hoạt động, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công và hoạt động khác có liên quan bảo đảm chặt chẽ, đồng bộ, thống nhất với Quy định số 189-QĐ/TW, các chủ trương, quy định của Đảng và pháp luật có liên quan. Tổ chức thực hiện nghiêm các quy định pháp luật về công tác quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công, mọi quyền lực được kiểm soát, giám sát chặt chẽ bằng cơ chế, được ràng buộc bằng trách nhiệm, quyền hạn đến đâu trách nhiệm đến đó, quyền hạn càng cao trách nhiệm càng lớn.
Kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của bộ, ngành, cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương, người có thẩm quyền trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công. Trong đó, tổ chức thực hiện đúng, đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn, hoạt động của các cơ quan, tổ chức trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tăng cường thực hiện trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu, tập thể lãnh đạo, công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, thường xuyên thực hiện công tác tự phê bình và phê bình.
Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn; việc chấp hành chủ trương, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, quy chế làm việc, quy định, quy trình nghiệp vụ, chuẩn mực đạo đức, quy tắc ứng xử, trong đó, tăng cường kiểm tra, giám sát, thanh tra nội bộ theo chuyên đề, chuyên ngành. Tăng cường tự kiểm tra, tự đánh giá nhằm ngăn chặn, phát hiện, xử lý các sai phạm trong nội bộ; đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả công tác quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công.
Xây dựng, kiện toàn tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động có trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp và có phẩm chất cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, tinh thần vì Nhân dân phục vụ trong các cơ quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp nhà nước. Thường xuyên thực hiện luân chuyển, điều động, chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức và người có thẩm quyền, người được giao nhiệm vụ tham mưu, đề xuất trong cấp phát, quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công, bảo đảm chặt chẽ, dân chủ, khách quan, công khai, minh bạch, công bằng để phòng ngừa, giảm thiểu nguy cơ tham nhũng, tiêu cực, và tạo điều kiện để đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và tích lũy kinh nghiệm thực tế ở những vị trí công tác khác nhau.
Bảo vệ kịp thời người phát hiện, phản ánh, báo cáo, tố cáo, tố giác, báo tin, cung cấp thông tin về những hành vi vi phạm, lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn, lạm quyền, tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công; xử lý nghiêm những trường hợp lợi dụng việc phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo vu khống, xuyên tạc, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, cá nhân và các biện pháp khác kiểm soát quyền lực, phòng ngừa vi phạm, tham nhũng, tiêu cực.
3. Đẩy mạnh hoạt động thương mại năm 2025
Nhằm thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp xúc tiến thương mại trong và ngoài nước để thúc đẩy hoạt động thương mại năm 2025, tại Chỉ thị số 18/CT-TTg, ngày 18/6/2025, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo một số nội dung sau:
Đẩy mạnh xúc tiến xuất khẩu, tăng thị phần hàng Việt tại thị trường truyền thống và các nước có FTA/CEPA; đa dạng hóa thị trường, giảm phụ thuộc vào các thị trường rủi ro. Đẩy mạnh xúc tiến tại các thị trường trọng điểm (EU, Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, ASEAN, Ấn Độ, Trung Đông, châu Phi, Mỹ Latin) và thị trường ngách (Halal, Saudi Arabia, Ai Cập, UAE, Brazil, Bắc Phi,...). Tăng cường xúc tiến với các sản phẩm công nghệ cao như: bán dẫn, AI, tự động hóa, thiết bị, năng lượng tái tạo.
Khuyến khích nhập khẩu có chọn lọc nguyên liệu, linh kiện, thiết bị phục vụ sản xuất, nâng cao năng lực doanh nghiệp, gia tăng giá trị xuất khẩu và cân bằng cán cân thương mại tại các thị trường lớn.
Tăng cường xúc tiến tiêu thụ nội địa thông qua chương trình khuyến mại tập trung, hội chợ, kết nối cung - cầu, Cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam", đưa hàng Việt về nông thôn, vùng sâu, khu công nghiệp,... Phát triển mô hình hội chợ lưu động, xúc tiến liên kết ngành - vùng.
Xây dựng Kế hoạch tổng thể xúc tiến thương mại giai đoạn 2025-2030; triển khai chương trình chuyên sâu theo ngành hàng và thị trường, tăng cường phối hợp các cơ quan để triển khai hiệu quả xúc tiến xuất nhập khẩu.
Cung cấp thông tin, tư vấn pháp lý, kết nối doanh nghiệp xuất nhập khẩu, hỗ trợ xây dựng chiến lược thương hiệu, quảng bá sản phẩm đạt Thương hiệu Quốc gia, bảo hộ sở hữu trí tuệ ở nước ngoài. Đẩy mạnh quảng bá qua hội chợ, sự kiện ngoại giao - văn hóa và nền tảng số.
Theo dõi, phân tích tình hình kinh tế, thương mại thế giới và các chính sách của đối tác để kịp thời tham mưu, tận dụng cơ hội, mở rộng thị trường, chuỗi cung ứng, sản phẩm và ký kết các cam kết thương mại. Xem xét thành lập thêm Văn phòng xúc tiến thương mại tại các thị trường trọng điểm.
Điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo nhu cầu thị trường; hướng dẫn áp dụng tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP, truy xuất nguồn gốc; đẩy mạnh xúc tiến nông sản tại Trung Đông, châu Phi, Mỹ Latin, Nam Á, ASEAN và các nước có FTA. Hỗ trợ doanh nghiệp, nông dân tiếp cận thương mại điện tử, thực hiện tiêu chuẩn xanh - bền vững để giảm rủi ro kỹ thuật và thuế carbon.
Khai thác yếu tố văn hóa - bản sắc địa phương để xây dựng thương hiệu sản phẩm xuất khẩu (OCOP, thủ công mỹ nghệ,...) thông qua các sự kiện ẩm thực, du lịch, văn hóa quốc tế.
Đơn giản hóa thủ tục tín dụng, tạo điều kiện doanh nghiệp tiếp cận vốn. Rà soát, bố trí ngân sách xúc tiến thương mại và quảng bá thương hiệu. Thúc đẩy đầu tư sản xuất, chuyển đổi số trong thương mại (thương mại điện tử, logistics, tiếp thị số, phân tích dữ liệu) nhằm nâng cao năng lực cung ứng và mở rộng thị trường.
4. Một số điểm mới về sử dụng, quản lý, đào tạo, bồi dưỡng và xử lý kỷ luật, thực hiện hợp đồng nhiệm vụ đối với cán bộ, công chức
- Ngày 30/6/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 170/2025/NĐ-CP quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/7/2025. Nghị định sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến xác định người trúng tuyển trong kỳ thi tuyển công chức; nội dung vòng 2 (xét nghiệp vụ chuyên ngành) trong kỳ xét tuyển công chức phù hợp với đối tượng thực hiện xét tuyển; nội dung quyết định tuyển dụng xác định gồm tuyển dụng, bố trí vị trí việc làm và xếp ngạch tương ứng với vị trí việc làm tuyển dụng; tiêu chuẩn, điều kiện của người được tiếp nhận vào công chức. Quy định cụ thể các trường hợp thay đổi vị trí việc làm có ngạch công chức xếp theo thứ bậc về chuyên môn, nghiệp vụ cao hơn ngạch hiện giữ; thay đổi vị trí việc làm có ngạch công chức cùng thứ bậc chuyên môn, nghiệp vụ nhưng khác ngạch hiện giữ; thay đổi vị trí việc làm có ngạch công chức xếp theo thứ bậc về chuyên môn, nghiệp vụ thấp hơn ngạch hiện giữ do không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ hoặc có đơn tự nguyện thay đổi vị trí việc làm. Bổ sung trường hợp được tiếp nhận vào công chức là chuyên gia, nhà khoa học, luật gia, luật sư giỏi, doanh nhân tiêu biểu, xuất sắc, nhà quản lý, nhà quản trị doanh nghiệp; người công tác tại các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong hệ thống chính trị mà không phải là công chức, phù hợp với quy định của Luật Cán bộ, công chức năm 2025 trong việc thực hiện thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao và người có kinh nghiệm, đáp ứng ngay yêu cầu công việc vào làm việc tại khu vực công.
- Ngày 30/6/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 171/2025/NĐ-CP quy định về đào tạo, bồi dưỡng công chức với quan điểm lấy học viên làm trung tâm, giảm tối đa các loại chứng chỉ chương trình bồi dưỡng không thiết thực; tập trung bồi dưỡng theo yêu cầu vị trí việc làm lãnh đạo, quản lý; theo yêu cầu vị trí việc làm chuyên môn, nghiệp vụ. Đào tạo, bồi dưỡng phải căn cứ vào vị trí việc làm gắn với công tác sử dụng, quản lý công chức phù hợp với kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và nhu cầu xây dựng, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao của cơ quan, đơn vị. Nâng cao ý thức trách nhiệm của công chức về tự nghiên cứu, tự học tập và lựa chọn chương trình bồi dưỡng theo yêu cầu vị trí việc làm chuyên môn, nghiệp vụ.
- Ngày 30/6/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 172/2025/NĐ-CP quy định về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức.
Sau khi Luật Tổ chức chính quyền địa phương có hiệu lực, chính quyền địa phương chuyển từ 3 cấp sang 2 cấp nên một số quy định hiện hành về xử lý kỷ luật liên quan đến cấp huyện, cấp xã không còn phù hợp với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp. Để kịp thời thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 172/2025/NĐ-CP thay thế Nghị định số 112/2020/NĐ-CP ngày 18/9/2020 của Chính phủ về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức và Nghị định số 71/2023/NĐ-CP, ngày 20/9/2023 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 112/2020/NĐ-CP, ngày 18/9/2020 về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức.
Thay vì 4 trường hợp như quy định tại Nghị định số 112/2020/NĐ-CP trước đó,  Nghị định số 172/2025/NĐ-CP quy định 3 trường hợp chưa xem xét xử lý kỷ luật. So với Nghị định số 71/2023/NĐ-CP và Nghị định số 112/2020/NĐ-CP thì Nghị định số 172/2025/NĐ-CP đã bổ sung trường hợp d và đ để thể chế hóa Nghị quyết số 138/NQ-CP, ngày 16/5/2025 của Chính phủ và Luật Cán bộ, công chức năm 2025 về cơ chế khuyến khích dám nghĩ, dám làm. Nghị định cũng bổ sung quy định cụ thể các trường hợp vi phạm được xem xét giảm nhẹ hoặc tăng nặng mức kỷ luật. Trường hợp vi phạm có một hoặc một số tình tiết sau thì bị tăng nặng mức kỷ luật.
Nghị định quy định hình thức kỷ luật áp dụng đối với cán bộ gồm: Khiển trách; cảnh cáo; cách chức, áp dụng đối với cán bộ được phê chuẩn, bổ nhiệm hoặc chỉ định giữ chức vụ, chức danh; bãi nhiệm. Hình thức kỷ luật áp dụng đối với công chức: Khiển trách; cảnh cáo; cách chức, áp dụng đối với công chức lãnh đạo, quản lý; buộc thôi việc. Như vậy, Nghị định số 172/2025/NĐ-CP đã bỏ hình thức kỷ luật giáng chức áp dụng đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý và hạ bậc lương đối với công chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý đã quy định tại Nghị định số 71/2023/NĐ-CP. Việc thay đổi này để phù hợp với Luật Cán bộ, công chức năm 2025 vì Luật này không quy định 02 hình thức kỷ luật trên.
- Chính phủ ban hành Nghị định số 173/2025/NĐ-CP, ngày 30/6/2025 về hợp đồng thực hiện nhiệm vụ của công chức. Theo Nghị định, các công việc được thực hiện thông qua ký hợp đồng, gồm: Công việc thực hiện một hoặc một số nhiệm vụ của vị trí việc làm lãnh đạo, quản lý mang tính chất chiến lược, đột xuất, cấp bách, không thường xuyên: Tổ chức xây dựng chính sách, hoạch định chính sách, chiến lược, chương trình, đề án khoa học, kinh tế, công nghệ, đổi mới sáng tạo, công nghiệp công nghệ số, phát triển hạ tầng số, chuyển đổi số quốc gia, cải cách thể chế; tổ chức triển khai hoặc giám sát thực hiện các chương trình, đề án thí điểm về công nghệ, chính sách đột phá; mô hình thử nghiệm công nghệ mới, hợp tác công tư trong nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ và cải cách thể chế; tổ chức triển khai các nhiệm vụ cấp quốc gia, cấp bộ, cấp địa phương về thực thi pháp luật, phát triển hệ thống dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, công nghệ bán dẫn, công nghệ sinh học, vật liệu mới, năng lượng mới và các ngành công nghiệp chiến lược khác; các nội dung khác theo quyết định của người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền quản lý, bảo đảm đúng nguyên tắc thực hiện và phù hợp với quy định về việc không ký hợp đồng đối với các loại công việc không được ký hợp đồng.
Công việc thực hiện một hoặc một số nhiệm vụ chuyên môn, nghiệp vụ có tính chất đặc thù, chuyên sâu, yêu cầu trình độ cao hoặc mang tính thời vụ, không thường xuyên, gồm: Ứng dụng thực hiện chuyển đổi số trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; xây dựng dữ liệu lớn, hệ thống phân tích dữ liệu, mô hình dự báo, trí tuệ nhân tạo trong lĩnh vực quản trị công, kinh tế - xã hội, cải cách hành chính, phát triển chính phủ số, kinh tế số, xã hội số phục vụ hoạt động quản lý nhà nước của cơ quan, tổ chức, đơn vị; phát triển, vận hành, giám sát các nền tảng số quốc gia, hệ thống thông tin quản lý, cơ sở dữ liệu chuyên ngành trong các lĩnh vực hành chính, giáo dục, y tế, tài nguyên - môi trường, đô thị thông minh; triển khai nhiệm vụ thuộc đề án, chương trình cải cách thể chế, nâng cao năng lực hoạch định chính sách công, chính sách đổi mới sáng tạo, thử nghiệm chính sách, kiểm thử hệ thống, bảo mật hệ thống thông tin phục vụ hoạt động quản lý nhà nước; các nội dung khác theo quyết định của người có thẩm quyền ký kết hợp đồng, bảo đảm đúng nguyên tắc thực hiện và phù hợp với quy định về việc không ký hợp đồng đối với các loại công việc không được ký hợp đồng.
5. Đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
Trong 6 tháng đầu năm 2025, hoạt động mua bán, vận chuyển hàng cấm, buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa, gian lận thương mại và hàng giả diễn biến rất phức tạp; nổi lên là các hoạt động vận chuyển trái phép hàng cấm, hàng nhập lậu, hàng không rõ nguồn gốc, hàng giả, hàng kém chất lượng, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ như xăng, dầu, vàng, rượu, bia, đường cát, mỹ phẩm, thực phẩm chức năng, quần áo, hàng đông lạnh, hàng gia dụng,... Lực lượng chức năng đã chủ động, tích cực triển khai đồng bộ các giải pháp kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn; thông tin, tuyên truyền, phổ biến pháp luật; đấu tranh ngăn chặn, xử tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Các đơn vị, địa phương đã bắt giữ, xử lý 50.736 vụ việc vi phạm. Trong đó, 10.862 vụ buôn bán, vận chuyển hàng cấm, hàng lậu; 36.604 vụ gian lận thương mại, gian lận về thuế; 3.270 vụ hàng giả, vi phạm sở hữu trí tuệ; thu nộp ngân sách nhà nước hơn 6.532,6 tỷ đồng; khởi tố hình sự 1.875 vụ, 3.235 đối tượng. Mặc dù kết quả chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả có nhiều chuyển biến nhưng chưa thực sự vững chắc, tình trạng hàng hóa nhập lậu, giả mạo nguồn gốc xuất xứ vẫn diễn biến phức tạp; tình trạng sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng, hàng không rõ nguồn gốc, xuất xứ, hàng xâm phạm sở hữu trí tuệ vẫn hoạt động công khai ở nhiều nơi, gia tăng trên môi trường thương mại điện tử với quy mô lớn, thời gian dài, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe Nhân dân,…
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về mở đợt cao điểm đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, trong tháng cao điểm từ 15/5 - 15/6/2025, các đơn vị, địa phương bắt giữ, xử lý 10.437 vụ việc buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả, tăng 80,51% so với tháng trước đó với 1.936 vụ buôn bán, vận chuyển hàng cấm, hàng lậu; 6.870 vụ gian lận thương mại, gian lận thuế; 1.631 vụ hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; thu nộp ngân sách nhà nước 1.279 tỷ đồng; khởi tố 204 vụ/378 bị can. Qua thống kê, có hơn 5.500 cửa hàng trên cả nước đóng cửa, tạm dừng hoạt động trong đợt cao điểm chống hàng giả. Nhiều ngành, địa phương thực hiện tốt Tháng cao điểm như: C03 Bộ Công an, Cục Quản lý và phát triển thị trường của Bộ Công Thương, các tỉnh, thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Ninh, Phú Thọ, Hòa Bình, Cao Bằng, Yên Bái, Thanh Hóa, Nghệ An, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Tây Ninh, Đồng Nai, Sóc Trăng, Bạc Liêu,… Tuy nhiên, một số địa phương hiệu quả đấu tranh đạt thấp.
Tại Hội nghị toàn quốc sơ kết công tác 6 tháng đầu năm 2025 và tổng kết đợt cao điểm đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu:
Tiếp tục kiên định mục tiêu, kiên quyết tuyên chiến, phòng, ngừa, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi, tiến tới quét sạch tình trạng buôn lậu, sản xuất, kinh doanh hàng giả, hàng nhái, gian lận thương mại, vi phạm sở hữu trí tuệ; đặc biệt, cần nhanh chóng, kịp thời triệt phá, không khoan nhượng, quét sạch nạn thuốc giả, thực phẩm giả vì ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng của người dân; xử lý vấn đề vi phạm bản quyền sở hữu trí tuệ liên quan lĩnh vực công nghiệp văn hóa, giải trí, và các hành vi buôn bán, lừa đảo, quảng cáo sai sự thật trên không gian mạng,… Chống buôn lậu, gian lận thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng nhái, vi phạm sở hữu trí tuệ là nhiệm vụ trọng tâm, lâu dài, thường xuyên, thực hiện không ngừng nghỉ, không có vùng cấm, cần huy động cả hệ thống chính trị, người dân, doanh nghiệp vào cuộc để bảo vệ sức khỏe, tính mạng của người dân, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của doanh nghiệp làm ăn chân chính, bảo vệ an ninh, an toàn, phục vụ phát triển đất nước nhanh và bền vững.
Các bộ, ngành, địa phương, nhất là người đứng đầu tập trung rà soát, xây dựng thể chế, pháp luật; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc; tăng cường năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước ở các cấp, các ngành, địa phương. Các lực lượng chức năng phải liên tục ra quân, thường xuyên, xử lý một vụ để cảnh tỉnh cả vùng, cả lĩnh vực. Phát động phong trào để mỗi người dân là một chiến sĩ trong cuộc chiến với buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; và là một người tiêu dùng thông minh trên thị trường.
Xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, trách nhiệm cao, có đạo đức, nhân văn trong thực hành công vụ; xây dựng cơ chế chính sách để huy động người dân, doanh nghiệp tham gia vào đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, hàng nhái; đẩy mạnh tuyên truyền phổ biến chính sách, pháp luật; làm tốt công tác thi đua, khen thưởng trong lĩnh vực này; đặc biệt có chính sách khuyến khích các lực lượng, nhất là người dân tham gia đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; đẩy mạnh thông tin, nâng cao nhận thức của Nhân dân, giúp người dân hiểu rõ, phòng ngừa các thủ đoạn gian lận, lừa đảo; quản lý chặt chẽ, không để tình trạng quảng cáo sai sự thật, dễ gây nhầm lẫn; làm tốt công tác thi đua, khen thưởng trong lĩnh vực này.
6. Tiến độ các dự án nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận
Trước yêu cầu đảm bảo an ninh năng lượng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thực hiện cam kết giảm phát thải ròng về 0 vào năm 2050, từ cuối năm 2024, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã quyết liệt chỉ đạo tái khởi động các dự án nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2. Thủ tướng đã chủ trì 2 cuộc họp Ban Chỉ đạo, giao 13 nhiệm vụ trọng tâm, đến nay 47% đã hoàn thành, 38% đang triển khai, 15% chưa thực hiện. Tuy nhiên, tiến độ đàm phán với các đối tác, đặc biệt dự án Ninh Thuận 2, còn chậm.
Tại cuộc họp rà soát tiến độ và Thông báo số 316/TB-VPCP, ngày 24/6/2025 của Văn phòng Chính phủ, Chính phủ yêu cầu một số nội dung chủ yếu sau:
Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ kiện toàn Ban Chỉ đạo, hoàn thiện kế hoạch triển khai Nghị quyết 189/2025/QH15; thành lập Đoàn đàm phán dự án Ninh Thuận 1, đàm phán và ký hiệp định với Nga trong tháng 8/2025; làm việc với Nhật Bản về dự án Ninh Thuận 2; phối hợp xử lý kiến nghị của tỉnh Ninh Thuận và hướng dẫn hồ sơ điều chỉnh chủ trương đầu tư.
Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với Bộ Công Thương và các bộ, cơ quan liên quan rà soát, thống nhất quy định về khoảng cách an toàn khu dân cư tính từ hàng rào nhà máy, bảo đảm đúng quy định, hướng dẫn Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận tổ chức triển khai.
Bộ Tài chính khẩn trương hoàn thiện hồ sơ về việc bố trí vốn cho tỉnh Ninh Thuận từ nguồn tăng thu ngân sách trung ương năm 2024 để thực hiện dự án di dân, tái định cư cho các nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 2458/VPCP-KTTH, ngày 4/6/2025 của Văn phòng Chính phủ.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì, phối hợp với Bộ Công Thương và các cơ quan liên quan chủ động hướng dẫn Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận triển khai công tác hỗ trợ, đền bù, giải phóng mặt bằng, tái định cư để triển khai xây dựng các nhà máy điện hạt nhân trên địa bàn tỉnh và hướng dẫn các thủ tục quản lý chặt chẽ Khu dự trữ sinh quyển thế giới Núi Chúa.
Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận hoàn thành việc điều chỉnh quy hoạch tỉnh, quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh theo đúng thẩm quyền và quy định, làm cơ sở để triển khai dự án di dân, tái định cư cho dự án nhà máy điện hạt nhân; làm việc với Bộ Công Thương để thống nhất phương án xử lý đối với các khó khăn, vướng mắc trong việc triển khai dự án di dân, tái định cư cho dự án nhà máy điện hạt nhân được nêu trong Báo cáo số 131/BC-UBND, ngày 31/5/2025; tập trung triển khai tốt công tác giải phóng mặt bằng, bồi thường, tái định cư, sớm di dời các hộ dân để bàn giao cho chủ đầu tư.
Tập đoàn Điện lực Việt Nam phối hợp chặt chẽ với Bộ Công Thương và các cơ quan liên quan trong việc chuẩn bị kỹ các nội dung đàm phán (nhất là các vấn đề về kỹ thuật, công nghệ); tham gia Đoàn đàm phán với phía Nga về hợp tác đầu tư xây dựng nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1, bảo đảm hoàn thành trong tháng 7 năm 2025; phối hợp chặt chẽ với Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận làm tốt công tác giải phóng mặt bằng, di dân tái định cư cho dự án Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1, nhanh chóng ổn định sinh kế cho các gia đình tại nơi ở mới để không ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh và đời sống người dân địa phương.
Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam chủ động phối hợp với Bộ Công Thương và các cơ quan liên quan làm việc với phía Nhật Bản về khả năng tiếp tục hợp tác trong Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 2; phối hợp chặt chẽ với Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận làm tốt công tác giải phóng mặt bằng, di dân tái định cư cho dự án Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 2, nhanh chóng ổn định sinh kế cho các gia đình tại nơi ở mới để không ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh và đời sống người dân địa phương.
7. Kết quả 2 chương trình mục tiêu quốc gia và 2 phong trào thi đua
Các chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 đã cơ bản hoàn thành các mục tiêu đề ra với nhiều chỉ tiêu đạt và vượt mức; đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần thay đổi diện mạo nông thôn và nâng cao đời sống người dân.
Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, đến tháng 3/2025, tỉ lệ hộ nghèo đa chiều trên cả nước giảm còn 1,93%, đạt chỉ tiêu giảm bình quân từ 1-1,5%/năm. Tỉ lệ hộ nghèo tại các huyện nghèo giảm còn 24,86%, bình quân giảm 6,7%/năm, vượt chỉ tiêu và tỉ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số còn 12,55%, bình quân giảm 4,45%/năm, đạt chỉ tiêu. Tổng số hộ nghèo, hộ cận nghèo đầu kỳ là gần 2,4 triệu hộ, dự kiến cuối năm 2025 còn khoảng 1,25 triệu hộ, đạt 52,49%, vượt 2,49% so với chỉ tiêu giảm 1/2 số hộ nghèo và hộ cận nghèo so với đầu kỳ theo chuẩn nghèo đa chiều của quốc gia. Chương trình đã quan tâm đầu tư cơ sở hạ tầng cho các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo, với hơn 2.600 công trình được đầu tư giúp 19/54 xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo thoát khỏi tình trạng nghèo, đặc biệt khó khăn, đạt chuẩn nông thôn mới, đạt tỉ lệ 35,18%, vượt chỉ tiêu 30% được giao.
Tỉ lệ suy dinh dưỡng thấp còi của trẻ em dưới 16 tuổi giảm còn 25,42%, đạt chỉ tiêu dưới 34% được giao. Gần 200.000 trẻ em và gần 130.000 phụ nữ mang thai đã được hỗ trợ bổ sung vi chất dinh dưỡng. 100% lao động thuộc hộ nghèo, cận nghèo, mới thoát nghèo có nhu cầu đều được tư vấn, hướng nghiệp, kết nối thị trường lao động. Gần 6.300 phiên giao dịch việc làm được tổ chức và hơn 1,1 triệu người sử dụng lao động cùng gần 3 triệu người tìm việc đã được cập nhật thông tin vào cơ sở dữ liệu. Đã triển khai trên 10.000 mô hình sinh kế, vượt xa mục tiêu hỗ trợ trên 1.000 mô hình; hỗ trợ kết nối việc làm thành công cho gần 134.000 lao động thuộc hộ nghèo, cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, vượt mục tiêu tối thiểu 100.000 lao động.
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đều cơ bản đạt các chỉ tiêu, trong đó có những chỉ tiêu vượt so với mục tiêu đề ra. Cấp xã, đã có 6.084/7.669 xã (79,3%) đạt chuẩn nông thôn mới, tăng 10,6% so với cuối năm 2021 và cơ bản hoàn thành mục tiêu cả giai đoạn 2021-2025 được giao); có 2.567 xã (42,4%) đạt chuẩn nâng cao (tăng 2.064 xã so với cuối năm 2021, vượt mục tiêu cả giai đoạn 2021 - 2025 được giao) và 743 xã (12,3%) đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu (tăng 700 xã so với cuối năm 2021, vượt mục tiêu cả giai đoạn 2021-2025 được giao).
Cấp huyện, có 329/646 đơn vị cấp huyện (51%) đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận hoàn thành nhiệm vụ, đạt chuẩn nông thôn mới (tăng 116 đơn vị so với cuối năm 2021, vượt mục tiêu cả giai đoạn 2021-2025 được giao). Trong số các huyện đạt chuẩn, đến nay đã có 48 huyện (20%) được Thủ tướng Chính phủ công nhận đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao (hoàn thành mục tiêu cả giai đoạn 2021-2025 được giao). Cấp tỉnh, có 12 tỉnh, thành phố đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới (đạt 70% mục tiêu cả giai đoạn 2021-2025 được giao).
Thu nhập bình quân của người dân nông thôn, năm 2024 đạt 54 triệu đồng/người/năm (tăng 1,3 lần so với năm 2020). Phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn tiếp tục khẳng định vai trò then chốt, tạo nền tảng thúc đẩy thực hiện hiệu quả các mục tiêu xây dựng nông thôn mới theo hướng bền vững và toàn diện. Ngày càng nhiều địa phương tập trung xây dựng mô hình xã nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu có bản sắc và gắn với thực tiễn sản xuất, sinh hoạt và đặc trưng văn hóa vùng, miền; những làng, xã xanh - sạch - đẹp, những miền quê đáng sống ngày càng xuất hiện nhiều hơn.
Cơ cấu lại ngành nông nghiệp gắn với phát triển kinh tế nông thôn tiếp tục được triển khai đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm. Nhiều địa phương đã hình thành vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với vùng nguyên liệu và hệ thống logistics, giá trị sản xuất trên 1 ha đất nông nghiệp tăng bình quân 5 - 10% so với năm 2020. Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) tiếp tục là điểm nhấn nổi bật trong phát triển kinh tế nông thôn (cả nước hiện có 16.543 sản phẩm OCOP đạt từ 3 sao trở lên, tăng 12.056 sản phẩm so với năm 2020). Chương trình phát triển du lịch nông thôn mặc dù mới được triển khai hơn 3 năm nhưng đã và đang tác động tích cực, góp phần thu hút ngày càng lớn du khách đến với các miền quê.
2 phong trào thi đua - Phong trào thi đua Cả nước chung tay xây dựng nông thôn mới, Phong trào thi đua Vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau - đã có sức lan tỏa rộng khắp trên tất cả các vùng, miền, lĩnh vực, huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị, sự tham gia hưởng ứng tích cực của Nhân dân, doanh nghiệp góp phần xây dựng nông thôn mới ngày càng giàu đẹp, văn minh và công tác giảm nghèo bền vững đạt kết quả tích cực trên nhiều tiêu chí. Nhiều cơ chế, chính sách được ban hành đã phát huy hiệu quả, huy động được nguồn lực lớn trong Nhân dân, được người dân đồng tỉnh ủng hộ và hưởng ứng tham gia, tạo khí thế thi đua sôi nổi, sâu rộng trong toàn hệ thống chính trị, quyết tâm thực hiện thắng lợi các mục tiêu xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững. Công tác tuyên truyền, vận động được đẩy mạnh, góp phần tích cực thay đổi nhận thức của người dân về xây dựng nông thôn mới và phấn đấu vươn lên thoát nghèo bền vững. Công tác phát hiện bồi dưỡng, nhân rộng điển hình tiên tiến được chú trọng thực hiện theo 4 khâu: phát hiện - bồi dưỡng - khen thưởng - nhân rộng. Công tác sơ kết, tổng kết Phong trào thi đua được chú trọng, quan tâm, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong triển khai, thực hiện.
Định hướng nhiệm vụ thời gian sắp tới, tại Hội nghị toàn quốc tổng kết Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, Phong trào thi đua Cả nước chung tay xây dựng nông thôn mới, Phong trào thi đua Vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau giai đoạn 2021-2025 (ngày 22/6), Thủ tướng nêu rõ:
Cả hệ thống chính trị (cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội) cần tập trung thực hiện bốn đẩy mạnh: Đẩy mạnh hoàn thiện thể chế để phục vụ nông dân là trung tâm, là chủ thể, nông nghiệp là động lực, nông thôn là nền tảng của sự phát triển; đẩy mạnh phát triển hạ tầng chiến lược cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn (gồm hạ tầng giao thông, năng lượng, y tế, văn hóa, giáo dục, thể thao, hạ tầng số,… theo hướng xanh và bền vững); đẩy mạnh xây dựng, phát triển yếu tố con người, cụ thể là nông dân phù hợp với giai đoạn cách mạng mới, sự phát triển mới, chính quyền địa phương 2 cấp, thực hiện bộ tứ trụ cột theo 04 Nghị quyết của Bộ Chính trị (đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; hội nhập quốc tế trong tình hình mới; đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật; phát triển kinh tế tư nhân); đẩy mạnh đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp phù hợp nhu cầu và sự hưởng thụ của người dân Việt Nam và người tiêu dùng thế giới; đa dạng hóa chuỗi cung ứng trong nông nghiệp; đa dạng hóa thị trường xuất khẩu nông nghiệp.
Người nông dân cần thực hiện 3 tiên phong: Tiên phong thoát nghèo và thi đua làm giàu từ bàn tay, khối óc, mảnh đất, khung trời, cửa biển; tiên phong xây dựng nông dân văn minh; tiên phong sản xuất xanh, bền vững, chuyển đổi số và nhất là triển khai phong trào Bình dân học vụ số, xây dựng nền kinh tế số, Chính phủ số, xã hội số, công dân số.
Các bộ, ngành, các cấp cần tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc, đồng bộ, hiệu quả sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đồng chí Tổng Bí thư; tập trung khẩn trương xây dựng các Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững giai đoạn 2026-2035 theo hướng tích hợp; và nghiên cứu, tham mưu phát động phong trào thi đua phù hợp; huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc trong tổ chức thực hiện với quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, phân công sáu rõ: Rõ người, rõ việc, rõ thời gian, rõ trách nhiệm, rõ sản phẩm, rõ thẩm quyền.
Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương

Tác giả: Tuong Mai Van

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây