Văn bản mới (số tháng 9 năm 2025)
- Thứ năm - 28/08/2025 09:51
- In ra
- Đóng cửa sổ này

Bảo hiểm Xã hội tỉnh An Giang phối hợp với Bưu điện tỉnh, tổ chức tuyên truyền, vận động người dân phường Vĩnh Thông tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Ảnh Phượng Linh
1. Công văn số 130-CV/TU, ngày 20/8/2025 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy An Giang về tăng cường công tác tư tưởng đối với cán bộ, đảng viên và Nhân dân trong vận hành chính quyền địa phương 2 cấp.
Công văn nêu rõ, cuộc cách mạng sắp xếp, tinh gọn bộ máy là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nuốc, đang được triển khai thực hiện quyết liệt trên phạm vi cả nước nhằm xây dựng hệ thống chính trị “Tinh - Gọn - Mạnh - Hiệu năng - Hiệu lực - Hiệu quả”, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Sau gần 2 tháng triển khai vận hành chính quyền địa phương 2, Tỉnh đã đạt nhiều kết quả quan trọng, bảo đảm hoạt động ổn định, thông suốt, hiệu quả; tạo được sự đồng thuận, ủng hộ của các tầng lớp nhân dân.
Tuy nhiên, theo báo cáo của Ban Tổ chức Tỉnh ủy và Sở Nội vụ, đến ngày 15/8/2025, toàn tỉnh tiếp nhận 4.223 hồ sơ xin nghỉ chế độ chính sách theo Nghị định số 178/2024/NĐ-CP và Nghị định số 67/2025/NĐ-CP, trong đó, khối đảng 977 hồ sơ, khối chính quyền 3.246 hồ sơ; cấp tỉnh 1.503 hồ sơ, cấp xã 2.720 hồ sơ. Trong thời gian ngắn, số lượng hồ sơ đăng ký nghỉ việc để hưởng chính sách tăng mạnh, gây “hụt hẫng” cán bộ, công chức, viên chức cục bộ ở một vài đơn vị, địa phương, ảnh hưởng lớn đến kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị chung của tỉnh.
Tình trạng nêu trên có nhiều nguyên nhân, nguyên nhân chủ quan do công tác tư tưởng ở một số nơi chưa thật sự sâu sát, chưa đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới; một số cấp ủy, chính quyền địa phương, người đứng đầu chưa phát huy đầy đủ vai trò nêu gương, còn biểu hiện hành chính, thiếu quyết liệt; việc nắm bắt, định hướng dư luận xã hội có lúc, có nơi chưa kịp thời; công tác đấu tranh, phản bác thông tin sai trái, xấu độc trên không gian mạng còn hạn chế; một bộ phận cán bộ, đảng viên còn biểu hiện băn khoăn, ngại khó, thiếu chủ động trong tham mưu, tổ chức thực hiện nhiệm vụ; chậm thích ứng với phương thức điều hành mới; nhiều cán bộ, đảng viên xin nghỉ việc sớm...
Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả vận hành chính quyền địa phương 2 cấp trên địa bàn tỉnh, Ban Thường vụ Tỉnh ủy yêu cầu các cấp ủy, chính quyền tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân, trọng tâm thực hiện một số nhiệm vụ sau:
Một là, tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Trong đó, quán triệt, triển khai thực hiện có hiệu quả các nghị quyết, kết luận, chương trình, kế hoạch công tác có liên quan, bảo đảm chính quyền địa phương 2 cấp tiếp tục vận hành ổn định, thông suốt, phục vụ người dân và doanh nghiệp ngày càng tốt hơn; đồng thời, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh.
Phát huy vai trò của hệ thống tuyên giáo, dân vận, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trong công tác tuyên truyền, vận động, tạo sự đồng thuận trong Nhân dân. Chủ động nắm chắc tình hình tư tưởng, dư luận xã hội; kịp thời định hướng, giải quyết những khó khăn, vướng mắc của Nhân dân trong vận hành chính quyền địa phương 2 cấp.
Hai là, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, gương mẫu, nói đi đôi với làm, tạo niềm tin cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Đề cao trách nhiệm của tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong điều hành công việc; tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo khắc phục có hiệu quả, kịp thời những hạn chế, yếu kém, vướng mắc trong vận hành chính quyền địa phương 2 cấp thời gian vừa qua.
Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực, kỹ năng thực thi công vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ và chuyển đổi số, cải cách hành chính, nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Kiện toàn công tác cán bộ đối với các vị trí còn thiếu; chủ động rà soát để sắp xếp, điều chuyển cán bộ cho phù hợp thực tiễn nhiệm vụ, bảo đảm đúng người, đúng việc, đúng chuyên môn, nghiệp vụ. Quan tâm tạo điều kiện tốt nhất để “giữ chân” và phát huy đội ngũ cán bộ có chuyên môn giỏi, năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; giữ được cán bộ, nhất là cán bộ giỏi không chỉ bằng chế độ, mà quan trọng hơn là giữ được niềm tin và sự yên tâm.
Ba là, mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, khắc phục khó khăn, dám nghĩ, dám làm, dám cống hiến, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Không ngừng tu dưỡng, rèn luyện toàn diện về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, các kỹ năng quản lý hành chính hiện đại, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, giao tiếp hành chính... hiệu quả, chất lượng sản phẩm công việc cụ thể, phù hợp với đặc điểm ngành, lĩnh vực, chức năng, nhiệm vụ được giao. Chủ động, sáng tạo, gắn bó mật thiết với Nhân dân, sâu sát cơ sở, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn. Kiên quyết khắc phục biểu hiện quan liêu, cửa quyền, thiếu tinh thần trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ.
Bốn là, thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện công tác tư tưởng trong cán bộ, đảng viênvà Nhân dân; kịp thời biểu dương, nhân rộng mô hình, điển hình tiên tiến, cách làm hiệu quả trong vận hành chính quyền địa phương 2 cấp trên địa bàn tỉnh. Chủ động phát hiện, ngăn chặn, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên để không ngừng củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Năm là, Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Đảng ủy Ủy ban nhân dân tỉnh khẩn trương rà soát, tham mưu ban hành các cơ chế, chính sách hỗ trợ kịp thời cán bộ, công chức, viên chức về chế độ, nhà ở, phương tiện sinh hoạt..., nhất là các trường hợp công tác xa nhà (cấp tỉnh và cấp xã) để yên tâm công tác.
Khẩn trương rà soát, thống kê, đánh giá năng lực, nhu cầu kiện toàn cán bộ lãnh đạo, công chức, viên chức cấp xã. Đồng thời rà soát, đề xuất nguồn cán bộ, công chức cấp tỉnh có khả năng bổ sung, kiện toàn cho cấp xã.
Ban Thường vụ Tỉnh ủy giao Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy, các cơ quan tham mưu, giúp việc Tỉnh ủy theo chức năng, nhiệm vụ giúp Ban Thường vụ Tỉnh ủy theo dõi việc triển khai, quán triệt và thực hiện công văn.
Công văn này được phổ biến đến chi bộ.
2. Chỉ thị số 01-CT/TU, ngày 25/8/2025 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường công tác lãnh đạo thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2025-2030.
Chỉ thị nêu rõ, trong những năm qua, thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT), bảo hiểm thất nghiệp (BHTN), tỉnh An Giang đã đạt nhiều kết quả quan trọng. Các cấp ủy đảng, chính quyền, các ngành, các cấp trong tỉnh quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện; nhận thức của chủ sử dụng lao động, người lao động và Nhân dân được nâng lên; việc giải quyết, chỉ trả lương huu và các chế độ trợ cấp BHTN cho người thụ hưởng được thực hiện đầy đủ, kịp thời, quyền lợi và chất lượng khám bệnh, chữa bệnh ngày càng được nâng lên; góp phần bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe của Nhân dân, đảm bảo an sinh xã hội, thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững kinh tế, văn hóa - xã hội, ổn định quốc phòng, an ninh của tỉnh.
Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách BHXH, BHYT, BHTN vẫn chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Công tác tuyên truyền, vận động người dân tham gia BHXH, BHYT từng lúc, từng nơi chưa được quan tâm đúng mức, hiệu quả chưa cao; tỷ lệ bao phủ người tham gia BHXH, BHYT chua đạt yêu cầu và phát triển thiếu bền vững. Một số doanh nghiệp, chủ sử dụng lao động chưa được thực hiện đầy đủ các quy định về đóng BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động. Việc khám, chữa bệnh BHYT chưa đáp ứng yêu cầu, còn vướng mắc... Những hạn chế trên có nguyên nhân khách quan, song nguyên nhân chủ quan là do vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp ủy, cơ quan, đơn vị, địa phương, nhất là người đứng đầu chưa coi trọng đúng mức, thiếu quyết liệt; nhận thức của một bộ phận Nhân dân, người lao động, người sử dụng lao động về chính sách BHXH, BHYT, BHTN còn hạn chế.
Để tiếp tục phát huy vai trò của chính sách BHXH, BHYT, thực hiện đạt mục tiêu chăm lo thực hiện tốt các chính sách và đảm bảo an sinh xã hội, tiến tới mục tiêu BHXH, BHYT toàn dân theo chỉ đạo của Trung ương, của tỉnh, trong bối cảnh thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước về sắp xếp, tinh gọn bộ máy, thực hiện chính quyền địa phương 2 cấp, Ban Thường vụ Tỉnh ủy yêu cầu các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh, các tổ chức chính trị - xã hội tỉnh thực hiện tốt các nhiệm vụ trọng tâm sau:
Một là, các cấp ủy đảng, chính quyền tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về BHXH, BHYT, nhất là những nội dung mới được quy định trong Luật BHXH số 41/2024/QH15, Luật BHYT số 51/2024/QH15; thực hiện có hiệu quả chính sách BHXH, BHYT, BHTN xem đây là nhiệm vụ chính trị thường xuyên, quan trọng, góp phần đảm bảo an sinh xã hội bền vững của địa phương. Đưa mục tiêu phát triển đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện, BHYT vào chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội hằng năm, giai đoạn 2025 - 2030 của địa phương, gắn với vai trò, trách nhiệm người đứng đầu trong chỉ đạo thực hiện; việc hoàn thành chỉ tiêu bao phủ đối tượng tham gia BHXH, BHYT hằng năm là tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của địa phương, đơn vị.
Hai là, Đảng ủy Ủy ban nhân dân tỉnh lãnh đạo Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo xây dựng và thực hiện kế hoạch giao chỉ tiêu phát triển đối tượng tham gia BHXH, BHYT hằng năm cho các xã, phường, đặc khu; huy động các nguồn lực, kết hợp cân đối ngân sách nhà nước để thực hiện tốt việc hỗ trợ BHXH tự nguyện, BHYT cho các đối tượng chính sách, người nghèo, người dân vùng khó khăn theo khả năng và điều kiện của địa phương, nhằm mở rộng diện bao phủ BHXH, BHYT và đảm bảo hoàn thành chỉ tiêu được giao hằng năm.
Tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước và BHXH ở các cấp trong thực hiện chế độ, chính sách BHXH, BHYT, BHTN, đảm bảo quyền lợi cho người tham gia. Củng cố, kiện toàn, nâng chất lượng hoạt động của Ban Chỉ đạo thực hiện chính sách BHXH, BHYT các cấp. Đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực BHXH, BHYT theo hướng minh bạch, thuận lợi; ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong quản lý, tiếp nhận, giải quyết chế độ BHXH, BHYT. Thường xuyên kiểm tra, thanh tra, sử dụng hiệu quả các quỹ BHXH, BHYT, kịp thời có giải pháp để ngăn chặn tình trạng lạm dụng, trục lợi nhằm tối ưu hóa các quỹ BHXH, BHYT. Chỉ đạo giải quyết dứt điểm các vụ việc khiếu nại, tố cáo về BHXH, BHYT, BHTN phức tạp, kéo dài, gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự trên địa bàn.
Chỉ đạo các cơ sở khám chữa bệnh cung ứng đầy đủ thuốc, hóa chất, thiết bị y tế; đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ y tế, nhằm nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, bảo đảm sự hài lòng cho người thụ hưởng BHYT. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, ứng dụng VSSID, VneID trong hoạt động khám, chữa bệnh; cập nhật đầy đủ, chính xác thông tin về khám, chữa bệnh, tạo lập cơ sở dữ liệu quốc gia về y tế, xây dựng hồ sơ sức khỏe điện tử và công tác giám định, thanh toán chi phí khám, chữa bệnh BHYT kịp thời.
Ba là, Đảng ủy Các cơ quan Đảng tỉnh lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh, các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục phát huy tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội trong việc thực hiện chính sách BHXH, BHYT ở cở sở. Phổi hợp tổ chức tuyên truyền, vận động doanh nghiệp, người lao động, đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân tham gia BHXH, BHYT; kịp thời lan tỏa những mô hình hay, cách làm mới, sáng tạo trong các chi, tổ, hội trong công tác vận động đoàn viên, hội viên tham gia BHXH tự nguyện, BHYT hộ gia đình.
Bốn là, Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy chỉ đạo, định hướng các cơ quan báo chí, truyền thông đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và chỉ đạo của tỉnh về thực hiện chính sách BHXH, BHYT, nâng cao nhận thức, tạo sự đồng thuận của cán bộ, đảng viên, người lao động và các tầng lớp nhân dân trong việc thực hiện chính sách, quyền lợi, nghĩa vụ tham gia BHXH, BHYT. Kịp thời đăng, phát các tin, bài biểu dương những tập thể, cá nhân điển hình; phản ánh những đơn vị, cá nhân vi phạm các quy định của pháp luật đối với công tác BHXH, BHYT.
Năm là, Ngành BHXH tỉnh đẩy mạnh cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính, ứng đụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, nâng cao chất lượng phục vụ, tạo sự hài lòng cho người tham gia BHXH, BHYT. Phối hợp chặt chẽ với các ngành chức năng trong tổ chức thực hiện các chính sách. Kịp thời giải quyết chế độ, chính sách, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người tham gia BHXH, BHYT. Thực hiện tốt chế độ báo cáo theo quy định.
Sáu là, giao Đảng ủy Ủy ban nhân dân tỉnh chủ trì, phối hợp với Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy và các cơ quan , đơn vị liên quan theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc triển khai thực hiện Chỉ thị này; quá trình triến khai thực hiện, phản ánh, kiến nghị kịp thời những khó khăn, vấn đề, có biện pháp tháo gỡ phù hợp; định kỳ báo cáo Ban Thường vụ Tỉnh ủy về kết quả thực hiện.
Chỉ thị này được quán triệt đến chi bộ và tuyên truyền, phố biển rộng rãi trong Nhân dân.
3. Công văn số 128-CV/TU, ngày 18/8/2025 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy An Giang chỉ đạo các sở, ban, ngành, Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính trị - xã hội tỉnh, các đảng ủy trực thuộc tỉnh ủy chủ động phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai trên địa bàn tỉnh.
Công văn nêu rõ, thời gian qua, thời tiết trên địa bàn tỉnh diễn phức tạp, tình trạng mưa bão, sạt lở đất, giông lốc... xảy ra ở một số nơi gây thiệt hại về người, tài sản của Nhà nước và Nhân dân. Để chủ động phòng ngừa, ứng phó kịp thời, hiệu quả với thiên tai, hạn chế thấp nhất thiệt hại, bảo đảm an toàn tính mạng, tài sản của Nhân dân và Nhà nước; Ban Thường vụ Tỉnh ủy yêu cầu các cấp ủy đảng, chính quyền, các sở, ban, ngành, Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính trị - xã hội trong tỉnh triển khai một số nhiệm vụ trọng tâm sau:
Một là, tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các văn bản chỉ đạo của Trung ương, của tỉnh về phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai; trọng tâm là: Chỉ thị số 42-CT/TW, ngày 24/3/2020 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng ngừa, ứng phó và khắc phục hậu quả thiên tai; Công văn số 65-CV/TW, ngày 13/6/2025 của Ban Bí thư về chủ động phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai; Công văn số 16611- CV/VPTW, ngày 11/8/2025 của Văn phòng Trung ương Đảng về thực hiện chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về phòng, chống, khắc phục hậu quả mưa lũ; Luật Phòng, chống thiên tai; các công điện, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về ứng phó với thiên tai, mưa lũ, sạt lở đất.
Hai là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền đối với công tác phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai. Xác định đây là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo việc phân công, phân cấp, xác định rõ trách nhiệm, nhất là đối với người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, cơ quan, tổ chức đơn vị, địa phương trong phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai.
Ba là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tổ chức tập huấn, diễn tập, nâng cao kiến thức, năng lực, kỹ năng phòng, chống thiên tai cho cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và nhân dân trong phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội các cấp, nhất là ở cơ sở trong công tác phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai.
Tổ chức tốt công tác vận động, hỗ trợ người dân khắc phục hậu quả thiên tai, ổn định cuộc sống; lan tỏa tinh thần tương thân, tương ái và sự đoàn kết trong toàn xã hội trong trường hợp thiên tai nghiêm trọng xảy ra; có hình thức tuyên dương, khen thưởng, động viên kịp thời những cơ quan, tổ chức, cá nhân có thành tích trong giúp đỡ người dân khắc phục hậu quả thiên tai.
Bốn là, nâng cao vai trò, năng lực quản lý nhà nước, khẩn trương củng cố lực lượng làm công tác phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai bảo đảm đủ năng lực hoạt động, đáp ứng yêu cầu thực tiễn, phù hợp với mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp. Chủ động xây dựng các phương án, kế hoạch phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai; tổ chức tốt việc kiểm tra, rà soát các khu vực, khu dân cư có nguy cơ cao bị ảnh hưởng của thiên tai; các đoạn đường dễ xảy ra sạt lở, sụt lún để chủ động ứng phó. Quan tâm ưu tiên đầu tư nguồn lực, chuẩn bị sẵn sàng các lực lượng, phương tiện theo phương châm “4 tại chỗ” để chủ động ứng phó với thiên tai có thể xảy ra. Chỉ đạo lực lượng quân sự, công an tổ chức triển khai lực lượng ứng trực, phối hợp với các địa phương trong công tác cứu hộ, cứu nạn, bảo đảm an ninh trật tự và sẵn sàng hỗ trợ, ứng cứu khi có tình huống xấu xảy ra. Khẩn trương tập trung sửa chữa, khắc phục nhanh hệ thống giao thông, lưới điện, thông tin liên lạc, các trường học, trạm y tế bị ảnh hưởng bởi thiên tai.
Năm là, nghiên cứu, đề xuất cấp có thẩm quyền hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách bảo đảm đầy đủ, khả thi, thuận lợi cho việc thực hiện các nhiệm vụ phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai. Đề xuất các giải pháp đầu tư đồng bộ vùng xung yếu; quy định các tiêu chuẩn, định mức công trình xây dựng đáp ứng yêu cầu phòng, chống thiên tai.
Sáu là, nâng cao năng lực, chất lượng dự báo, cảnh báo, theo dõi, giám sát thiên tai. Đẩy nhanh việc ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số, thúc đẩy hợp tác quốc tế về phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai. Ưu tiên trang bị công nghệ quan trắc, theo dõi, giám sát, chỉ đạo điều hành, ứng phó với thiên tai. Cảnh báo, thông tin kịp thời đến nhân dân về tình hình thời tiết, mưa bão, nguy cơ giông lốc, sạt lở đất để nhân dân biết, chủ động ứng phó, giảm thiểu thiệt hại.
4. Kết luận số 185-KL/TW, ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác tổ chức đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng
Tại phiên họp ngày 22/8/2025, sau khi nghe Báo cáo số 447-BC/BTCTW, ngày 21/8/2025 của Ban Tổ chức Trung ương về tình hình, kết quả đại hội đảng bộ cấp cơ sở và cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng nhiệm kỳ 2025 - 2030 và Báo cáo số 436-BC/VPTW, ngày 21/8/2025 của Văn phòng Trung ương Đảng về một số kết quả các cuộc làm việc của Bộ Chính trị cho ý kiến vào dự thảo văn kiện và phương án nhân sự cấp ủy đại hội các đảng bộ trực thuộc Trung ương nhiệm kỳ 2025 - 2030, Bộ Chính trị, Ban Bí thư kết luận như sau:
Một là, cơ bản thống nhất với Báo cáo của Ban Tổ chức Trung ương về tình hình, kết quả đại hội đảng bộ cấp cơ sở và cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng nhiệm kỳ 2025 - 2030; Báo cáo của Văn phòng Trung ương Đảng về một số kết quả các cuộc làm việc của Bộ Chính trị cho ý kiến vào dự thảo văn kiện và phương án nhân sự cấp ủy đại hội các đảng bộ trực thuộc Trung ương nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hai là, yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 45-CT/TW, ngày 14/4/2025 của Bộ Chính trị về việc tổ chức đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025 - 2030 và các chỉ đạo của Trung ương về chuẩn bị Đại hội XIV của Đảng. Các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương tập trung lãnh đạo, chỉ đạo:
(1) Tổ chức đại hội đảng bộ các cấp bảo đảm đúng tiến độ (các đảng bộ cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng, đảng bộ xã, phường, đặc khu hoàn thành trong tháng 8/2025; các đảng bộ trực thuộc Trung ương hoàn thành trong tháng 10/2025); xây dựng văn kiện đại hội, chương trình hành động bảo đảm chất lượng, bám sát và cụ thể hóa các chỉ đạo của Trung ương thành các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, phù hợp với đặc điểm tình hình của từng cấp, từng địa bàn; tổ chức đóng góp ý kiến có chất lượng, tập trung thảo luận các dự thảo văn kiện đại hội đảng bộ cấp mình, cấp trên trực tiếp và Đại hội lần thứ XIV của Đảng.
(2) Rà soát các khâu tổ chức đại hội bảo đảm tiết kiệm, chống lãng phí, không phô trương, hình thức.
(3) Khắc phục triệt để các tồn tại, hạn chế được chỉ ra.
(4) Khẩn trương kiện toàn, chỉ định bí thư cấp ủy (ở những nơi còn khuyết), phân công cấp ủy viên; hoàn thiện, ban hành các văn kiện, xây dựng quy chế làm việc, chương trình hành động thực hiện nghị quyết đại hội trong tháng 8/2025, bảo đảm kịp thời cụ thể hóa, tổ chức thực hiện nghị quyết ngay từ đầu nhiệm kỳ.
(5) Xây dựng kế hoạch, tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cấp ủy viên, ủy viên ủy ban kiểm tra đảng ủy ngay trong tháng 9/2025.
(6) Căn cứ tình hình đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức cấp xã, chủ động điều động, bố trí, phân công cán bộ, công chức, viên chức cấp xã đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Ba là, các Tiểu ban chuẩn bị Đại hội XIV của Đảng rà soát, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các nhiệm vụ chuẩn bị, phục vụ tổ chức tốt Đại hội XIV của Đảng, trước mắt tập trung chuẩn bị các nội dung tham mưu trình Hội nghị Trung ương 13 theo chương trình đề ra.
Bốn là, giao Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh chủ trì, phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương hoàn thiện chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc cho đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp; khẩn trương tổ chức triển khai theo kế hoạch.
Năm là, giao Ủy ban Kiểm tra Trung ương phối hợp với ban thường vụ tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương lãnh đạo, chỉ đạo ủy ban kiểm tra các cấp thực hiện công tác giám sát việc tổ chức đại hội, xây dựng nghị quyết, chương trình hành động cho đại hội, kiện toàn cấp ủy.
Sáu là, giao Văn phòng Trung ương Đảng chủ trì, phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương và các cơ quan có liên quan thường xuyên tổng hợp tình hình, tiến độ đại hội đảng bộ các cấp và công tác chuẩn bị Đại hội XIV của Đảng, định kỳ báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
5. Nghị định 188/2025/NĐ-CP, ngày 1/7/2025 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm y tế, gồm 72 điều, có hiệu lực từ ngày 15/8/2025. Nghị định có một số nội dung đáng chú ý sau:
Mức đóng do người sử dụng lao động đóng hoặc người lao động đóng hoặc cùng đóng được quy định như sau:
- Mức đóng hằng tháng của đối tượng quy định tại các điểm a, c, d và e khoản 1, Điều 12 của Luật Bảo hiểm y tế bằng 4,5% tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, trong đó người sử dụng lao động đóng hai phần ba và người lao động đóng một phần ba;
- Mức đóng hằng tháng của đối tượng quy định tại các điểm b và đ khoản 1, Điều 12 của Luật Bảo hiểm y tế bằng 4,5% tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc và do đối tượng đóng;
- Mức đóng hằng tháng của đối tượng quy định tại điểm g khoản 1, Điều 12 của Luật Bảo hiểm y tế bằng 4,5% mức lương cơ sở, trong đó người sử dụng lao động đóng hai phần ba và người lao động đóng một phần ba;
- Mức đóng hằng tháng của đối tượng quy định tại điểm h khoản 1, Điều 12 của Luật Bảo hiểm y tế bằng 4,5% tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, trong đó người sử dụng lao động đóng hai phần ba và người lao động đóng một phần ba;
- Mức đóng hằng tháng của đối tượng quy định tại điểm i khoản 1, Điều 12 của Luật Bảo hiểm y tế bằng 4,5% mức lương cơ sở và do người sử dụng lao động của công nhân và viên chức quốc phòng đang phục vụ trong quân đội, người sử dụng lao động của công nhân công an đang công tác trong công an nhân dân đóng;
- Mức đóng hằng tháng của đối tượng 5 ở trên bằng 4,5% mức lương cơ sở và do người sử dụng lao động của người làm công tác khác trong tổ chức cơ yếu theo quy định của pháp luật về cơ yếu đóng;
- Người lao động là cán bộ, công chức, viên chức đang trong thời gian bị tạm giữ, tạm giam, tạm đình chỉ công tác hoặc tạm đình chỉ chức vụ mà chưa bị xử lý kỷ luật thì mức đóng hàng tháng bằng 4,5% của 50% mức tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc của người lao động của tháng liền kề trước khi bị tạm giam, tạm giữ hoặc tạm đình chỉ theo quy định của pháp luật, trong đó người sử dụng lao động đóng hai phần ba và người lao động đóng một phần ba. Trường hợp cơ quan có thẩm quyền kết luận là không vi phạm pháp luật, người sử dụng lao động và người lao động phải truy đóng bảo hiểm y tế trên số tiền lương được truy lĩnh.
Mức hỗ trợ từ ngân sách nhà nước được quy định như sau:
Hỗ trợ 100% mức đóng bảo hiểm y tế đối với người thuộc hộ gia đình cận nghèo đang cư trú trên địa bàn các xã nghèo theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và các văn bản khác của cơ quan có thẩm quyền;
Hỗ trợ tối thiểu 70% mức đóng bảo hiểm y tế đối với đối tượng quy định tại điểm a khoản 4, Điều 12 của Luật Bảo hiểm y tế;
Hỗ trợ tối thiểu 70% mức đóng bảo hiểm y tế đối với đối tượng quy định tại điểm g khoản 4, Điều 12 của Luật Bảo hiểm y tế. Thời gian hỗ trợ là 36 tháng kể từ thời điểm xã nơi đối tượng đang sinh sống không còn thuộc vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn;
Hỗ trợ tối thiểu 50% mức đóng bảo hiểm y tế đối với đối tượng quy định tại điểm i khoản 4, Điều 12 của Luật Bảo hiểm y tế. Thời gian hỗ trợ là 01 năm kể từ khi đối tượng được cơ quan có thẩm quyền xác nhận là nạn nhân theo quy định của Luật Phòng, chống mua bán người;
Hỗ trợ tối thiểu 50% mức đóng bảo hiểm y tế đối với đối tượng quy định tại các điểm b, c, đ, e và h khoản 4, Điều 12 của Luật Bảo hiểm y tế;
Hỗ trợ tối thiểu 30% mức đóng bảo hiểm y tế đối với đối tượng quy định tại điểm d khoản 4, Điều 12 của Luật Bảo hiểm y tế và khoản 4, Điều 5 Nghị định này.
Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy An Giang
Công văn nêu rõ, cuộc cách mạng sắp xếp, tinh gọn bộ máy là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nuốc, đang được triển khai thực hiện quyết liệt trên phạm vi cả nước nhằm xây dựng hệ thống chính trị “Tinh - Gọn - Mạnh - Hiệu năng - Hiệu lực - Hiệu quả”, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Sau gần 2 tháng triển khai vận hành chính quyền địa phương 2, Tỉnh đã đạt nhiều kết quả quan trọng, bảo đảm hoạt động ổn định, thông suốt, hiệu quả; tạo được sự đồng thuận, ủng hộ của các tầng lớp nhân dân.
Tuy nhiên, theo báo cáo của Ban Tổ chức Tỉnh ủy và Sở Nội vụ, đến ngày 15/8/2025, toàn tỉnh tiếp nhận 4.223 hồ sơ xin nghỉ chế độ chính sách theo Nghị định số 178/2024/NĐ-CP và Nghị định số 67/2025/NĐ-CP, trong đó, khối đảng 977 hồ sơ, khối chính quyền 3.246 hồ sơ; cấp tỉnh 1.503 hồ sơ, cấp xã 2.720 hồ sơ. Trong thời gian ngắn, số lượng hồ sơ đăng ký nghỉ việc để hưởng chính sách tăng mạnh, gây “hụt hẫng” cán bộ, công chức, viên chức cục bộ ở một vài đơn vị, địa phương, ảnh hưởng lớn đến kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị chung của tỉnh.
Tình trạng nêu trên có nhiều nguyên nhân, nguyên nhân chủ quan do công tác tư tưởng ở một số nơi chưa thật sự sâu sát, chưa đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới; một số cấp ủy, chính quyền địa phương, người đứng đầu chưa phát huy đầy đủ vai trò nêu gương, còn biểu hiện hành chính, thiếu quyết liệt; việc nắm bắt, định hướng dư luận xã hội có lúc, có nơi chưa kịp thời; công tác đấu tranh, phản bác thông tin sai trái, xấu độc trên không gian mạng còn hạn chế; một bộ phận cán bộ, đảng viên còn biểu hiện băn khoăn, ngại khó, thiếu chủ động trong tham mưu, tổ chức thực hiện nhiệm vụ; chậm thích ứng với phương thức điều hành mới; nhiều cán bộ, đảng viên xin nghỉ việc sớm...
Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả vận hành chính quyền địa phương 2 cấp trên địa bàn tỉnh, Ban Thường vụ Tỉnh ủy yêu cầu các cấp ủy, chính quyền tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân, trọng tâm thực hiện một số nhiệm vụ sau:
Một là, tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Trong đó, quán triệt, triển khai thực hiện có hiệu quả các nghị quyết, kết luận, chương trình, kế hoạch công tác có liên quan, bảo đảm chính quyền địa phương 2 cấp tiếp tục vận hành ổn định, thông suốt, phục vụ người dân và doanh nghiệp ngày càng tốt hơn; đồng thời, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh.
Phát huy vai trò của hệ thống tuyên giáo, dân vận, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trong công tác tuyên truyền, vận động, tạo sự đồng thuận trong Nhân dân. Chủ động nắm chắc tình hình tư tưởng, dư luận xã hội; kịp thời định hướng, giải quyết những khó khăn, vướng mắc của Nhân dân trong vận hành chính quyền địa phương 2 cấp.
Hai là, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, gương mẫu, nói đi đôi với làm, tạo niềm tin cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Đề cao trách nhiệm của tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong điều hành công việc; tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo khắc phục có hiệu quả, kịp thời những hạn chế, yếu kém, vướng mắc trong vận hành chính quyền địa phương 2 cấp thời gian vừa qua.
Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực, kỹ năng thực thi công vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ và chuyển đổi số, cải cách hành chính, nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Kiện toàn công tác cán bộ đối với các vị trí còn thiếu; chủ động rà soát để sắp xếp, điều chuyển cán bộ cho phù hợp thực tiễn nhiệm vụ, bảo đảm đúng người, đúng việc, đúng chuyên môn, nghiệp vụ. Quan tâm tạo điều kiện tốt nhất để “giữ chân” và phát huy đội ngũ cán bộ có chuyên môn giỏi, năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; giữ được cán bộ, nhất là cán bộ giỏi không chỉ bằng chế độ, mà quan trọng hơn là giữ được niềm tin và sự yên tâm.
Ba là, mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, khắc phục khó khăn, dám nghĩ, dám làm, dám cống hiến, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Không ngừng tu dưỡng, rèn luyện toàn diện về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, các kỹ năng quản lý hành chính hiện đại, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, giao tiếp hành chính... hiệu quả, chất lượng sản phẩm công việc cụ thể, phù hợp với đặc điểm ngành, lĩnh vực, chức năng, nhiệm vụ được giao. Chủ động, sáng tạo, gắn bó mật thiết với Nhân dân, sâu sát cơ sở, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn. Kiên quyết khắc phục biểu hiện quan liêu, cửa quyền, thiếu tinh thần trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ.
Bốn là, thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện công tác tư tưởng trong cán bộ, đảng viênvà Nhân dân; kịp thời biểu dương, nhân rộng mô hình, điển hình tiên tiến, cách làm hiệu quả trong vận hành chính quyền địa phương 2 cấp trên địa bàn tỉnh. Chủ động phát hiện, ngăn chặn, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên để không ngừng củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Năm là, Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Đảng ủy Ủy ban nhân dân tỉnh khẩn trương rà soát, tham mưu ban hành các cơ chế, chính sách hỗ trợ kịp thời cán bộ, công chức, viên chức về chế độ, nhà ở, phương tiện sinh hoạt..., nhất là các trường hợp công tác xa nhà (cấp tỉnh và cấp xã) để yên tâm công tác.
Khẩn trương rà soát, thống kê, đánh giá năng lực, nhu cầu kiện toàn cán bộ lãnh đạo, công chức, viên chức cấp xã. Đồng thời rà soát, đề xuất nguồn cán bộ, công chức cấp tỉnh có khả năng bổ sung, kiện toàn cho cấp xã.
Ban Thường vụ Tỉnh ủy giao Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy, các cơ quan tham mưu, giúp việc Tỉnh ủy theo chức năng, nhiệm vụ giúp Ban Thường vụ Tỉnh ủy theo dõi việc triển khai, quán triệt và thực hiện công văn.
Công văn này được phổ biến đến chi bộ.
2. Chỉ thị số 01-CT/TU, ngày 25/8/2025 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường công tác lãnh đạo thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2025-2030.
Chỉ thị nêu rõ, trong những năm qua, thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT), bảo hiểm thất nghiệp (BHTN), tỉnh An Giang đã đạt nhiều kết quả quan trọng. Các cấp ủy đảng, chính quyền, các ngành, các cấp trong tỉnh quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện; nhận thức của chủ sử dụng lao động, người lao động và Nhân dân được nâng lên; việc giải quyết, chỉ trả lương huu và các chế độ trợ cấp BHTN cho người thụ hưởng được thực hiện đầy đủ, kịp thời, quyền lợi và chất lượng khám bệnh, chữa bệnh ngày càng được nâng lên; góp phần bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe của Nhân dân, đảm bảo an sinh xã hội, thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững kinh tế, văn hóa - xã hội, ổn định quốc phòng, an ninh của tỉnh.
Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách BHXH, BHYT, BHTN vẫn chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Công tác tuyên truyền, vận động người dân tham gia BHXH, BHYT từng lúc, từng nơi chưa được quan tâm đúng mức, hiệu quả chưa cao; tỷ lệ bao phủ người tham gia BHXH, BHYT chua đạt yêu cầu và phát triển thiếu bền vững. Một số doanh nghiệp, chủ sử dụng lao động chưa được thực hiện đầy đủ các quy định về đóng BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động. Việc khám, chữa bệnh BHYT chưa đáp ứng yêu cầu, còn vướng mắc... Những hạn chế trên có nguyên nhân khách quan, song nguyên nhân chủ quan là do vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp ủy, cơ quan, đơn vị, địa phương, nhất là người đứng đầu chưa coi trọng đúng mức, thiếu quyết liệt; nhận thức của một bộ phận Nhân dân, người lao động, người sử dụng lao động về chính sách BHXH, BHYT, BHTN còn hạn chế.
Để tiếp tục phát huy vai trò của chính sách BHXH, BHYT, thực hiện đạt mục tiêu chăm lo thực hiện tốt các chính sách và đảm bảo an sinh xã hội, tiến tới mục tiêu BHXH, BHYT toàn dân theo chỉ đạo của Trung ương, của tỉnh, trong bối cảnh thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước về sắp xếp, tinh gọn bộ máy, thực hiện chính quyền địa phương 2 cấp, Ban Thường vụ Tỉnh ủy yêu cầu các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh, các tổ chức chính trị - xã hội tỉnh thực hiện tốt các nhiệm vụ trọng tâm sau:
Một là, các cấp ủy đảng, chính quyền tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về BHXH, BHYT, nhất là những nội dung mới được quy định trong Luật BHXH số 41/2024/QH15, Luật BHYT số 51/2024/QH15; thực hiện có hiệu quả chính sách BHXH, BHYT, BHTN xem đây là nhiệm vụ chính trị thường xuyên, quan trọng, góp phần đảm bảo an sinh xã hội bền vững của địa phương. Đưa mục tiêu phát triển đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện, BHYT vào chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội hằng năm, giai đoạn 2025 - 2030 của địa phương, gắn với vai trò, trách nhiệm người đứng đầu trong chỉ đạo thực hiện; việc hoàn thành chỉ tiêu bao phủ đối tượng tham gia BHXH, BHYT hằng năm là tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của địa phương, đơn vị.
Hai là, Đảng ủy Ủy ban nhân dân tỉnh lãnh đạo Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo xây dựng và thực hiện kế hoạch giao chỉ tiêu phát triển đối tượng tham gia BHXH, BHYT hằng năm cho các xã, phường, đặc khu; huy động các nguồn lực, kết hợp cân đối ngân sách nhà nước để thực hiện tốt việc hỗ trợ BHXH tự nguyện, BHYT cho các đối tượng chính sách, người nghèo, người dân vùng khó khăn theo khả năng và điều kiện của địa phương, nhằm mở rộng diện bao phủ BHXH, BHYT và đảm bảo hoàn thành chỉ tiêu được giao hằng năm.
Tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước và BHXH ở các cấp trong thực hiện chế độ, chính sách BHXH, BHYT, BHTN, đảm bảo quyền lợi cho người tham gia. Củng cố, kiện toàn, nâng chất lượng hoạt động của Ban Chỉ đạo thực hiện chính sách BHXH, BHYT các cấp. Đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực BHXH, BHYT theo hướng minh bạch, thuận lợi; ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong quản lý, tiếp nhận, giải quyết chế độ BHXH, BHYT. Thường xuyên kiểm tra, thanh tra, sử dụng hiệu quả các quỹ BHXH, BHYT, kịp thời có giải pháp để ngăn chặn tình trạng lạm dụng, trục lợi nhằm tối ưu hóa các quỹ BHXH, BHYT. Chỉ đạo giải quyết dứt điểm các vụ việc khiếu nại, tố cáo về BHXH, BHYT, BHTN phức tạp, kéo dài, gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự trên địa bàn.
Chỉ đạo các cơ sở khám chữa bệnh cung ứng đầy đủ thuốc, hóa chất, thiết bị y tế; đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ y tế, nhằm nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, bảo đảm sự hài lòng cho người thụ hưởng BHYT. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, ứng dụng VSSID, VneID trong hoạt động khám, chữa bệnh; cập nhật đầy đủ, chính xác thông tin về khám, chữa bệnh, tạo lập cơ sở dữ liệu quốc gia về y tế, xây dựng hồ sơ sức khỏe điện tử và công tác giám định, thanh toán chi phí khám, chữa bệnh BHYT kịp thời.
Ba là, Đảng ủy Các cơ quan Đảng tỉnh lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh, các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục phát huy tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội trong việc thực hiện chính sách BHXH, BHYT ở cở sở. Phổi hợp tổ chức tuyên truyền, vận động doanh nghiệp, người lao động, đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân tham gia BHXH, BHYT; kịp thời lan tỏa những mô hình hay, cách làm mới, sáng tạo trong các chi, tổ, hội trong công tác vận động đoàn viên, hội viên tham gia BHXH tự nguyện, BHYT hộ gia đình.
Bốn là, Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy chỉ đạo, định hướng các cơ quan báo chí, truyền thông đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và chỉ đạo của tỉnh về thực hiện chính sách BHXH, BHYT, nâng cao nhận thức, tạo sự đồng thuận của cán bộ, đảng viên, người lao động và các tầng lớp nhân dân trong việc thực hiện chính sách, quyền lợi, nghĩa vụ tham gia BHXH, BHYT. Kịp thời đăng, phát các tin, bài biểu dương những tập thể, cá nhân điển hình; phản ánh những đơn vị, cá nhân vi phạm các quy định của pháp luật đối với công tác BHXH, BHYT.
Năm là, Ngành BHXH tỉnh đẩy mạnh cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính, ứng đụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, nâng cao chất lượng phục vụ, tạo sự hài lòng cho người tham gia BHXH, BHYT. Phối hợp chặt chẽ với các ngành chức năng trong tổ chức thực hiện các chính sách. Kịp thời giải quyết chế độ, chính sách, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người tham gia BHXH, BHYT. Thực hiện tốt chế độ báo cáo theo quy định.
Sáu là, giao Đảng ủy Ủy ban nhân dân tỉnh chủ trì, phối hợp với Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy và các cơ quan , đơn vị liên quan theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc triển khai thực hiện Chỉ thị này; quá trình triến khai thực hiện, phản ánh, kiến nghị kịp thời những khó khăn, vấn đề, có biện pháp tháo gỡ phù hợp; định kỳ báo cáo Ban Thường vụ Tỉnh ủy về kết quả thực hiện.
Chỉ thị này được quán triệt đến chi bộ và tuyên truyền, phố biển rộng rãi trong Nhân dân.
3. Công văn số 128-CV/TU, ngày 18/8/2025 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy An Giang chỉ đạo các sở, ban, ngành, Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính trị - xã hội tỉnh, các đảng ủy trực thuộc tỉnh ủy chủ động phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai trên địa bàn tỉnh.
Công văn nêu rõ, thời gian qua, thời tiết trên địa bàn tỉnh diễn phức tạp, tình trạng mưa bão, sạt lở đất, giông lốc... xảy ra ở một số nơi gây thiệt hại về người, tài sản của Nhà nước và Nhân dân. Để chủ động phòng ngừa, ứng phó kịp thời, hiệu quả với thiên tai, hạn chế thấp nhất thiệt hại, bảo đảm an toàn tính mạng, tài sản của Nhân dân và Nhà nước; Ban Thường vụ Tỉnh ủy yêu cầu các cấp ủy đảng, chính quyền, các sở, ban, ngành, Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính trị - xã hội trong tỉnh triển khai một số nhiệm vụ trọng tâm sau:
Một là, tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các văn bản chỉ đạo của Trung ương, của tỉnh về phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai; trọng tâm là: Chỉ thị số 42-CT/TW, ngày 24/3/2020 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng ngừa, ứng phó và khắc phục hậu quả thiên tai; Công văn số 65-CV/TW, ngày 13/6/2025 của Ban Bí thư về chủ động phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai; Công văn số 16611- CV/VPTW, ngày 11/8/2025 của Văn phòng Trung ương Đảng về thực hiện chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về phòng, chống, khắc phục hậu quả mưa lũ; Luật Phòng, chống thiên tai; các công điện, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về ứng phó với thiên tai, mưa lũ, sạt lở đất.
Hai là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền đối với công tác phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai. Xác định đây là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo việc phân công, phân cấp, xác định rõ trách nhiệm, nhất là đối với người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, cơ quan, tổ chức đơn vị, địa phương trong phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai.
Ba là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tổ chức tập huấn, diễn tập, nâng cao kiến thức, năng lực, kỹ năng phòng, chống thiên tai cho cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và nhân dân trong phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội các cấp, nhất là ở cơ sở trong công tác phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai.
Tổ chức tốt công tác vận động, hỗ trợ người dân khắc phục hậu quả thiên tai, ổn định cuộc sống; lan tỏa tinh thần tương thân, tương ái và sự đoàn kết trong toàn xã hội trong trường hợp thiên tai nghiêm trọng xảy ra; có hình thức tuyên dương, khen thưởng, động viên kịp thời những cơ quan, tổ chức, cá nhân có thành tích trong giúp đỡ người dân khắc phục hậu quả thiên tai.
Bốn là, nâng cao vai trò, năng lực quản lý nhà nước, khẩn trương củng cố lực lượng làm công tác phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai bảo đảm đủ năng lực hoạt động, đáp ứng yêu cầu thực tiễn, phù hợp với mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp. Chủ động xây dựng các phương án, kế hoạch phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai; tổ chức tốt việc kiểm tra, rà soát các khu vực, khu dân cư có nguy cơ cao bị ảnh hưởng của thiên tai; các đoạn đường dễ xảy ra sạt lở, sụt lún để chủ động ứng phó. Quan tâm ưu tiên đầu tư nguồn lực, chuẩn bị sẵn sàng các lực lượng, phương tiện theo phương châm “4 tại chỗ” để chủ động ứng phó với thiên tai có thể xảy ra. Chỉ đạo lực lượng quân sự, công an tổ chức triển khai lực lượng ứng trực, phối hợp với các địa phương trong công tác cứu hộ, cứu nạn, bảo đảm an ninh trật tự và sẵn sàng hỗ trợ, ứng cứu khi có tình huống xấu xảy ra. Khẩn trương tập trung sửa chữa, khắc phục nhanh hệ thống giao thông, lưới điện, thông tin liên lạc, các trường học, trạm y tế bị ảnh hưởng bởi thiên tai.
Năm là, nghiên cứu, đề xuất cấp có thẩm quyền hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách bảo đảm đầy đủ, khả thi, thuận lợi cho việc thực hiện các nhiệm vụ phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai. Đề xuất các giải pháp đầu tư đồng bộ vùng xung yếu; quy định các tiêu chuẩn, định mức công trình xây dựng đáp ứng yêu cầu phòng, chống thiên tai.
Sáu là, nâng cao năng lực, chất lượng dự báo, cảnh báo, theo dõi, giám sát thiên tai. Đẩy nhanh việc ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số, thúc đẩy hợp tác quốc tế về phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai. Ưu tiên trang bị công nghệ quan trắc, theo dõi, giám sát, chỉ đạo điều hành, ứng phó với thiên tai. Cảnh báo, thông tin kịp thời đến nhân dân về tình hình thời tiết, mưa bão, nguy cơ giông lốc, sạt lở đất để nhân dân biết, chủ động ứng phó, giảm thiểu thiệt hại.
4. Kết luận số 185-KL/TW, ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác tổ chức đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng
Tại phiên họp ngày 22/8/2025, sau khi nghe Báo cáo số 447-BC/BTCTW, ngày 21/8/2025 của Ban Tổ chức Trung ương về tình hình, kết quả đại hội đảng bộ cấp cơ sở và cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng nhiệm kỳ 2025 - 2030 và Báo cáo số 436-BC/VPTW, ngày 21/8/2025 của Văn phòng Trung ương Đảng về một số kết quả các cuộc làm việc của Bộ Chính trị cho ý kiến vào dự thảo văn kiện và phương án nhân sự cấp ủy đại hội các đảng bộ trực thuộc Trung ương nhiệm kỳ 2025 - 2030, Bộ Chính trị, Ban Bí thư kết luận như sau:
Một là, cơ bản thống nhất với Báo cáo của Ban Tổ chức Trung ương về tình hình, kết quả đại hội đảng bộ cấp cơ sở và cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng nhiệm kỳ 2025 - 2030; Báo cáo của Văn phòng Trung ương Đảng về một số kết quả các cuộc làm việc của Bộ Chính trị cho ý kiến vào dự thảo văn kiện và phương án nhân sự cấp ủy đại hội các đảng bộ trực thuộc Trung ương nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hai là, yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 45-CT/TW, ngày 14/4/2025 của Bộ Chính trị về việc tổ chức đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025 - 2030 và các chỉ đạo của Trung ương về chuẩn bị Đại hội XIV của Đảng. Các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương tập trung lãnh đạo, chỉ đạo:
(1) Tổ chức đại hội đảng bộ các cấp bảo đảm đúng tiến độ (các đảng bộ cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng, đảng bộ xã, phường, đặc khu hoàn thành trong tháng 8/2025; các đảng bộ trực thuộc Trung ương hoàn thành trong tháng 10/2025); xây dựng văn kiện đại hội, chương trình hành động bảo đảm chất lượng, bám sát và cụ thể hóa các chỉ đạo của Trung ương thành các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, phù hợp với đặc điểm tình hình của từng cấp, từng địa bàn; tổ chức đóng góp ý kiến có chất lượng, tập trung thảo luận các dự thảo văn kiện đại hội đảng bộ cấp mình, cấp trên trực tiếp và Đại hội lần thứ XIV của Đảng.
(2) Rà soát các khâu tổ chức đại hội bảo đảm tiết kiệm, chống lãng phí, không phô trương, hình thức.
(3) Khắc phục triệt để các tồn tại, hạn chế được chỉ ra.
(4) Khẩn trương kiện toàn, chỉ định bí thư cấp ủy (ở những nơi còn khuyết), phân công cấp ủy viên; hoàn thiện, ban hành các văn kiện, xây dựng quy chế làm việc, chương trình hành động thực hiện nghị quyết đại hội trong tháng 8/2025, bảo đảm kịp thời cụ thể hóa, tổ chức thực hiện nghị quyết ngay từ đầu nhiệm kỳ.
(5) Xây dựng kế hoạch, tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cấp ủy viên, ủy viên ủy ban kiểm tra đảng ủy ngay trong tháng 9/2025.
(6) Căn cứ tình hình đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức cấp xã, chủ động điều động, bố trí, phân công cán bộ, công chức, viên chức cấp xã đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Ba là, các Tiểu ban chuẩn bị Đại hội XIV của Đảng rà soát, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các nhiệm vụ chuẩn bị, phục vụ tổ chức tốt Đại hội XIV của Đảng, trước mắt tập trung chuẩn bị các nội dung tham mưu trình Hội nghị Trung ương 13 theo chương trình đề ra.
Bốn là, giao Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh chủ trì, phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương hoàn thiện chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc cho đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp; khẩn trương tổ chức triển khai theo kế hoạch.
Năm là, giao Ủy ban Kiểm tra Trung ương phối hợp với ban thường vụ tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương lãnh đạo, chỉ đạo ủy ban kiểm tra các cấp thực hiện công tác giám sát việc tổ chức đại hội, xây dựng nghị quyết, chương trình hành động cho đại hội, kiện toàn cấp ủy.
Sáu là, giao Văn phòng Trung ương Đảng chủ trì, phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương và các cơ quan có liên quan thường xuyên tổng hợp tình hình, tiến độ đại hội đảng bộ các cấp và công tác chuẩn bị Đại hội XIV của Đảng, định kỳ báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
5. Nghị định 188/2025/NĐ-CP, ngày 1/7/2025 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm y tế, gồm 72 điều, có hiệu lực từ ngày 15/8/2025. Nghị định có một số nội dung đáng chú ý sau:
Mức đóng do người sử dụng lao động đóng hoặc người lao động đóng hoặc cùng đóng được quy định như sau:
- Mức đóng hằng tháng của đối tượng quy định tại các điểm a, c, d và e khoản 1, Điều 12 của Luật Bảo hiểm y tế bằng 4,5% tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, trong đó người sử dụng lao động đóng hai phần ba và người lao động đóng một phần ba;
- Mức đóng hằng tháng của đối tượng quy định tại các điểm b và đ khoản 1, Điều 12 của Luật Bảo hiểm y tế bằng 4,5% tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc và do đối tượng đóng;
- Mức đóng hằng tháng của đối tượng quy định tại điểm g khoản 1, Điều 12 của Luật Bảo hiểm y tế bằng 4,5% mức lương cơ sở, trong đó người sử dụng lao động đóng hai phần ba và người lao động đóng một phần ba;
- Mức đóng hằng tháng của đối tượng quy định tại điểm h khoản 1, Điều 12 của Luật Bảo hiểm y tế bằng 4,5% tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, trong đó người sử dụng lao động đóng hai phần ba và người lao động đóng một phần ba;
- Mức đóng hằng tháng của đối tượng quy định tại điểm i khoản 1, Điều 12 của Luật Bảo hiểm y tế bằng 4,5% mức lương cơ sở và do người sử dụng lao động của công nhân và viên chức quốc phòng đang phục vụ trong quân đội, người sử dụng lao động của công nhân công an đang công tác trong công an nhân dân đóng;
- Mức đóng hằng tháng của đối tượng 5 ở trên bằng 4,5% mức lương cơ sở và do người sử dụng lao động của người làm công tác khác trong tổ chức cơ yếu theo quy định của pháp luật về cơ yếu đóng;
- Người lao động là cán bộ, công chức, viên chức đang trong thời gian bị tạm giữ, tạm giam, tạm đình chỉ công tác hoặc tạm đình chỉ chức vụ mà chưa bị xử lý kỷ luật thì mức đóng hàng tháng bằng 4,5% của 50% mức tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc của người lao động của tháng liền kề trước khi bị tạm giam, tạm giữ hoặc tạm đình chỉ theo quy định của pháp luật, trong đó người sử dụng lao động đóng hai phần ba và người lao động đóng một phần ba. Trường hợp cơ quan có thẩm quyền kết luận là không vi phạm pháp luật, người sử dụng lao động và người lao động phải truy đóng bảo hiểm y tế trên số tiền lương được truy lĩnh.
Mức hỗ trợ từ ngân sách nhà nước được quy định như sau:
Hỗ trợ 100% mức đóng bảo hiểm y tế đối với người thuộc hộ gia đình cận nghèo đang cư trú trên địa bàn các xã nghèo theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và các văn bản khác của cơ quan có thẩm quyền;
Hỗ trợ tối thiểu 70% mức đóng bảo hiểm y tế đối với đối tượng quy định tại điểm a khoản 4, Điều 12 của Luật Bảo hiểm y tế;
Hỗ trợ tối thiểu 70% mức đóng bảo hiểm y tế đối với đối tượng quy định tại điểm g khoản 4, Điều 12 của Luật Bảo hiểm y tế. Thời gian hỗ trợ là 36 tháng kể từ thời điểm xã nơi đối tượng đang sinh sống không còn thuộc vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn;
Hỗ trợ tối thiểu 50% mức đóng bảo hiểm y tế đối với đối tượng quy định tại điểm i khoản 4, Điều 12 của Luật Bảo hiểm y tế. Thời gian hỗ trợ là 01 năm kể từ khi đối tượng được cơ quan có thẩm quyền xác nhận là nạn nhân theo quy định của Luật Phòng, chống mua bán người;
Hỗ trợ tối thiểu 50% mức đóng bảo hiểm y tế đối với đối tượng quy định tại các điểm b, c, đ, e và h khoản 4, Điều 12 của Luật Bảo hiểm y tế;
Hỗ trợ tối thiểu 30% mức đóng bảo hiểm y tế đối với đối tượng quy định tại điểm d khoản 4, Điều 12 của Luật Bảo hiểm y tế và khoản 4, Điều 5 Nghị định này.
Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy An Giang