An Giang đẩy mạnh phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số

Thứ hai - 29/12/2025 15:11
Thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị, về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, Tỉnh uỷ An Giang đã ban hành Chương trình hành động số 02-CTr/TU, với tinh thần triển khai quyết liệt, sâu sát. Việc kiện toàn Ban Chỉ đạo, Tổ Giúp việc và phân công trách nhiệm rõ ràng đã huy động 100% sở, ngành, địa phương vào cuộc đồng bộ; nhờ đó đạt nhiều kết quả tích cực.
Hội nông dân tỉnh An Giang tập huấn sử dụng máy bay không người lái cho nông dân.
Hội nông dân tỉnh An Giang tập huấn sử dụng máy bay không người lái cho nông dân.
 
Theo thống kê, tính đến thời điểm ngày 18/12/2025, tỉnh được giao 166 nhiệm vụ (đã hoàn thành 122/166 nhiệm vụ, đạt tỷ lệ 73,49%); rà soát, ưu tiên bố trí kinh phí ngân sách tỉnh cho phát triển khoa học công nghệ - đổi mới sáng tạo - chuyển đổi số (KHCN-ĐMST-CĐS ) năm 2025 là 1.119 tỷ đồng. Tỷ lệ kinh phí bố trí cho phát triển KHCN-ĐMST-CĐS trên tổng chi ngân sách địa phương là 2,95% (1.119 tỷđồng/37.873,3 tỷ đồng), đến nay đã giải ngân 558,9 tỷ đồng, đạt tỷ lệ 49,95%, phấn đấu đến ngày 31/12/2025, tỷ lệ giải ngân đạt 96% kinh phí đã bố trí.
Hạ tầng công nghệ, kỹ thuật từng bước được hoàn thiện với tổng số 10.131 trạm thu phát sóng thông tin di động (BTS); hạ tầng viễn thông, Internet băng rộng di động và cố định đã phủ khắp 100% xã, phường, đặc khu; tỷ lệ hộ gia đình có kết nối băng rộng đạt gần 80%, thuê bao sử dụng điện thoại thông minh đạt 82,6%, trên 4,3 triệu thuê bao điện thoại di động. 100% cơ quan nhà nước kết nối mạng truyền số liệu chuyên dùng và sử dụng chữ ký số; 17.780 cán bộ, công chức đã được cấp chữ ký số công vụ. 102/102 xã, phường, đặc khu đủ điều kiện vận hành Trung tâm phục vụ hành chính công.
Về lĩnh vực nông nghiệp - môi trường, các chương trình cơ giới hóa nông nghiệp, áp dụng các biện pháp canh tác bền vững trong sản xuất lúa (3 Giảm 3 Tăng, 1 Phải 5 Giảm, IPM, SRP...), đề án 01 triệu ha lúa chất lượng cao được triển khai mạnh mẽ; đến nay, tỉnh có 623.000 ha đất trồng lúa, sản lượng bình quân đạt 8,8 triệu tấn/năm, trong đó diện tích lúa chất lượng cao đạt chuẩn phát thải thấp đạt trên 150.000ha, sản lượng trên 900.000 tấn, giảm phát thải khí nhà kính từ 7.56 đến 8.11 tấn CO2qđ/ha. Trong lĩnh vực môi trường, ứng dụng công nghệ vi sinh IMO và triển khai nhiệm vụ khoa học công nghệ cấp tỉnh về công nghệ vi sinh nhằm giảm ô nhiễm không khí tại một số khu vực sản xuất và giảm thể tích rác thải tập trung.
Về lĩnh vực y tế, toàn tỉnh triển khai phần mềm quản lý bệnh viện (HIS) tại 100% cơ sở y tế có giường bệnh, tạo nền dữ liệu thống nhất phục vụ quản trị khám chữa bệnh. Đã thực hiện hướng dẫn sử dụng Sổ sức khỏe điện tử trên ứng dụng VNeID, 100% cơ sở khám chữa bệnh sử dụng thẻ Căn cước hoặc ứng dụng VNeID trong khám chữa bệnh thay thế thẻ bảo hiểm y tế.
Về lĩnh vực giáo dục - đào tạo, tỉnh đầu tư cho năng lực STEM/STEAM vừa hình thành dữ liệu học tập phục vụ quản trị, điều hành. Cuộc thi khoa học kỹ thuật cấp tỉnh năm học 2024-2025 có 166 dự án, chọn 03 dự án dự thi cấp quốc gia và đạt 03 giải nhì, phản ánh chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa học học sinh. Về chuyển đổi số giáo dục, 100% trường tiểu học sử dụng học bạ số; cấp trung học cơ sở có 218/362 trường và cấp trung học phổ thông/giáo dục thường xuyên có 87/133 trường tham gia thí điểm, tỷ lệ chung trên 60% với quy mô gần 200.000 học sinh.
Ở các lĩnh vực thương mại - dịch vụ, tỉnh thúc đẩy thanh toán số và số hóa quy trình để tăng minh bạch, giảm tiếp xúc trực tiếp và tạo dữ liệu phục vụ quản lý. Trong thương mại điện tử, tỉnh phối hợp phát triển sàn OCOP và triển khai các nền tảng/sản phẩm số liên quan như VNeTrip, GCheck, Echeck để xúc tiến thương mại và liên kết bán hàng. Trong quản lý thuế - tài chính số, tỉnh triển khai hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền và mở rộng sử dụng eTax Mobile nhằm tăng thuận tiện và nâng hiệu quả tuân thủ. Trong thanh toán, hệ thống ATM (639 máy) và POS (4.626 máy) được duy trì, đồng thời tỷ lệ người dân từ 15 tuổi trở lên có tài khoản ngân hàng đạt 84,3%, tạo nền cho thanh toán không dùng tiền mặt và phân tích kinh tế.
Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn một số khó khăn, hạn chế, như: Một số cấp ủy, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và xã hội chưa nhận thức hết vai trò của KHCN-ĐMST-CĐS; nguồn nhân lực KHCN-ĐMST-CĐS chưa đồng đều giữa các ngành, địa phương; nhân lực chuyên trách, đặc biệt về công nghệ thông tin, công nghệ số, an toàn thông tin còn thiếu; tình trạng kiêm nhiệm, thiếu đào tạo chuyên môn (đặc biệt là về trí tuệ nhân tạo) còn phổ biến. Chỉ số về chuyển đổi số (DTI) và đổi mới sáng tạo (PII) của tỉnh còn thấp. Hạ tầng và trang thiết bị công nghệ thông tin tuy cơ bản đáp ứng yêu cầu nhưng nhiều nơi xuống cấp, thiếu đồng bộ. Một số đảo của tỉnh vẫn chưa có điện lưới quốc gia và hạ tầng cáp quang, gây khó khăn cho thông tin liên lạc. Điều kiện và khả năng khai thác, sử dụng các nền tảng, dịch vụ số của người dân vẫn còn hạn chế... điều này ảnh hưởng đến việc thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện, nhất là kinh tế số và xã hội số.
Để khắc phục những hạn chế trên, Sở Khoa học và Công nghệ tiếp tục phối hợp với các sở, ban, ngành tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ trọng tâm sau:
Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của toàn xã hội về mục tiêu, ý nghĩa và yêu cầu của Nghị quyết số 57-NQ/TW; đa dạng hóa hình thức truyền thông, bảo đảm thông tin được lan tỏa kịp thời, đầy đủ, thống nhất đến cán bộ, đảng viên, doanh nghiệp và người dân. Tăng cường chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW một cách đồng bộ, quyết liệt và hiệu quả, bảo đảm nguyên tắc 6 rõ: “Rõ việc; Rõ cơ quan ban hành, cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp; Rõ biện pháp, nguồn lực thực hiện; Rõ thời gian; Rõ thẩm quyền, trách nhiệm; Rõ sản phẩm đạt được”. Đề cao vai trò, trách nhiệm của cơ quan được giao chủ trì và phối hợp thực hiện theo đúng yêu cầu về tiến độ, chất lượng và hiệu quả; bảo đảm các nhiệm vụ trọng tâm được cụ thể hóa thành các tiểu nhiệm vụ gắn với sản phẩm đầu ra cụ thể.
Hai là, hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy KHCN - ĐMST - CĐS, triển khai Nghị quyết triển khai Luật Công nghiệp công nghệ số trên địa bàn tỉnh. Phát triển nhân lực chất lượng cao, tăng cường tập huấn, bồi dưỡng KHCN - ĐMST - CĐS và ứng dụng AI cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Đổi mới chỉ đạo, điều hành dựa trên dữ liệu; thúc đẩy chuyển đổi số trong doanh nghiệp; triển khai lộ trình đổi mới công nghệ đến 2035, hoàn thiện hệ sinh thái khởi nghiệp, phát triển tài sản sở hữu trí tuệ và nâng cao chỉ số DTI, PII.
Ba là, rà soát, nâng cấp hạ tầng, hoàn thiện Trung tâm IOC, đẩy nhanh Khu Công nghệ thông tin tập trung; bảo đảm tối thiểu 3% ngân sách cho hoạt động KHCN - ĐMST - CĐS. Phát triển công dân số, triển khai mạnh phong trào “Bình dân học vụ số”, hỗ trợ người dân học tập trên SmartAnGiang/MOOC, phát huy Tổ công nghệ số cộng đồng và tăng cường kỹ năng số trong trường học. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW, gắn trách nhiệm người đứng đầu với kết quả triển khai; kịp thời phát hiện, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện. Đồng thời, đẩy mạnh công tác thi đua, khen thưởng, biểu dương, nhân rộng các mô hình hay, cách làm hiệu quả; xem kết quả thực hiện KHCN - ĐMST - CĐS là tiêu chí quan trọng trong đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị và cá nhân.
Với quyết tâm chính trị và sự đồng thuận cao theo phương châm “Một An Giang - Một tầm nhìn - Một ý chí - Một niềm tin thắng lợi”, An Giang xác định phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là “đòn bẩy” chiến lược, động lực quan trọng để bứt phá, đưa tỉnh nhà thành tỉnh phát triển khá của cả nước vào năm 2030.
Võ Minh Trung
Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ An Giang

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây