1. Tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng
Ngày 22/8/2025, Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành Kết luận số 185-KL/TW về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. Tại phiên họp ngày 22/8/2025, sau khi nghe Báo cáo số 447-BC/BTCTW, ngày 21/8/2025 của Ban Tổ chức Trung ương về tình hình, kết quả đại hội đảng bộ cấp cơ sở và cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng nhiệm kỳ 2025-2030 và Báo cáo số 436-BC/VPTW, ngày 21/8/2025 của Văn phòng Trung ương Đảng về một số kết quả các cuộc làm việc của Bộ Chính trị cho ý kiến vào dự thảo văn kiện và phương án nhân sự cấp ủy đại hội các đảng bộ trực thuộc Trung ương nhiệm kỳ 2025-2030, Bộ Chính trị, Ban Bí thư kết luận như sau:
Cơ bản thống nhất với Báo cáo của Ban Tổ chức Trung ương về tình hình, kết quả đại hội đảng bộ cấp cơ sở và cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng nhiệm kỳ 2025-2030; Báo cáo của Văn phòng Trung ương Đảng về một số kết quả các cuộc làm việc của Bộ Chính trị cho ý kiến vào dự thảo văn kiện và phương án nhân sự cấp ủy đại hội các đảng bộ trực thuộc Trung ương nhiệm kỳ 2025-2030. Yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 45-CT/TW, ngày 14/4/2025 của Bộ Chính trị về việc tổ chức đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025-2030 và các chỉ đạo của Trung ương về chuẩn bị Đại hội XIV của Đảng.
Các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức đại hội đảng bộ các cấp bảo đảm đúng tiến độ (các đảng bộ cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng, đảng bộ xã, phường, đặc khu hoàn thành trong tháng 8/2025; các đảng bộ trực thuộc Trung ương hoàn thành trong tháng 10/2025; xây dựng văn kiện đại hội, chương trình hành động bảo đảm chất lượng, bám sát và cụ thể hóa các chỉ đạo của Trung ương thành các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, phù hợp với đặc điểm tình hình của từng cấp, từng địa bàn; tổ chức đóng góp ý kiến có chất lượng, tập trung thảo luận các dự thảo văn kiện đại hội đảng bộ cấp mình, cấp trên trực tiếp và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng; rà soát các khâu tổ chức đại hội bảo đảm tiết kiệm, chống lãng phí, không phô trương, hình thức; khắc phục triệt để các tồn tại, hạn chế được chỉ ra; khẩn trương kiện toàn, chỉ định bí thư cấp ủy (ở những nơi còn khuyết), phân công cấp ủy viên; hoàn thiện, ban hành các văn kiện, xây dựng quy chế làm việc, chương trình hành động thực hiện nghị quyết đại hội trong tháng 8/2025, bảo đảm kịp thời cụ thể hóa, tổ chức thực hiện nghị quyết ngay từ đầu nhiệm kỳ; xây dựng kế hoạch, tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cấp ủy viên, ủy viên ủy ban kiểm tra đảng ủy ngay trong tháng 9/2025; căn cứ tình hình đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức cấp xã, chủ động điều động, bố trí, phân công cán bộ, công chức, viên chức cấp xã đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Các Tiểu ban chuẩn bị Đại hội XIV của Đảng rà soát, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các nhiệm vụ chuẩn bị, phục vụ tổ chức tốt Đại hội XIV của Đảng, trước mắt tập trung chuẩn bị các nội dung tham mưu trình Hội nghị Trung ương 13 theo chương trình đề ra. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh chủ trì, phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương hoàn thiện chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc cho đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là cán bộ chủ chốt cấp ủy các cấp; khẩn trương tổ chức triển khai theo kế hoạch.
Ủy ban Kiểm tra Trung ương phối hợp với ban thường vụ tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương lãnh đạo, chỉ đạo ủy ban kiểm tra các cấp thực hiện công tác giám sát việc tổ chức Đại hội, xây dựng nghị quyết, chương trình hành động của Đại hội, kiện toàn cấp ủy. Văn phòng Trung ương Đảng chủ trì, phối hợp với Ban Tổ chức Trung ương và các cơ quan liên quan thường xuyên tổng hợp tình hình, tiến độ đại hội đảng bộ các cấp và công tác chuẩn bị Đại hội XIV của Đảng, định kỳ báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Ngày 03/9/2025, Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành Kết luận số 190-KL/TW về tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. Tại phiên họp ngày 29/8/2025, sau khi nghe Báo cáo số 447-BC/VPTW, ngày 28/8/2025 của Văn phòng Trung ương Đảng về tình hình, tiến độ đại hội đảng bộ các cấp và công tác chuẩn bị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư kết luận như sau:
Các cấp ủy, tổ chức đảng tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 45-CT/TW, ngày 14/4/2025 của Bộ Chính trị. Các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương: Căn cứ thông báo kết luận làm việc của Bộ Chính trị, Tổ Công tác của Bộ Chính trị cho ý kiến vào văn kiện và phương án nhân sự đại hội, ý kiến góp ý của các cơ quan Trung ương để bổ sung, hoàn thiện các văn kiện và phương án nhân sự, chuẩn bị tốt các điều kiện để tổ chức thành công đại hội đại biểu đảng bộ nhiệm kỳ 2025-2030. Trong chương trình đại hội, tập trung, dành thời gian thỏa đáng cho nội dung thảo luận văn kiện đại hội đảng bộ và văn kiện Đại hội lần thứ XIV của Đảng. Tập trung thảo luận kỹ những điểm mới, những đột phá trọng tâm, những hạn chế, điểm nghẽn cần tháo gỡ; khẩn trương xây dựng chương trình hành động thực hiện nghị quyết đại hội cụ thể, phù hợp, bám sát thực tiễn của đảng bộ, xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung, lộ trình, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân để kịp thời tổ chức thực hiện.
Giao Ban Tổ chức Trung ương, Ủy ban Kiểm tra Trung ương thường xuyên theo dõi, đôn đốc các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương, các tiểu ban chuẩn bị Đại hội lần thứ XIV báo cáo tình hình, tiến độ đại hội đảng bộ các cấp, kịp thời phát hiện, hướng dẫn, đề xuất giải quyết những vấn đề phát sinh trong quá trình tổ chức Đại hội và triển khai thực hiện nghị quyết.
Giao Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương tiếp tục đẩy mạnh chỉ đạo, định hướng công tác thông tin, tuyên truyền, tạo sự thống nhất hành động trong Đảng, đồng thuận trong xã hội để tổ chức thành công đại hội đảng bộ các cấp, Đại hội XIV của Đảng.
2. Một số kết quả triển khai mô hình chính quyền địa phương 02 cấp
Thời gian qua, việc sắp xếp và vận hành chính quyền địa phương 02 cấp được đánh giá là cuộc cách mạng về tổ chức bộ máy, sắp xếp lại giang sơn để có hành trang mới, khí thế mới bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình, giàu mạnh, văn minh, phồn vinh, thịnh vượng. Việc triển khai mô hình chính quyền địa phương 02 cấp đã được Bộ Chính trị, Tổng Bí thư, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt và các bộ, ngành, địa phương nghiêm túc thực hiện, đạt nhiều kết quả quan trọng, tạo bước chuyển rõ nét trong tổ chức và vận hành bộ máy hành chính nhà nước. Việc sắp xếp và vận hành chính quyền địa phương 02 cấp đã nhận được sự đồng thuận chung của cả nước, sự ủng hộ của Nhân dân, sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, đạt được kết quả tích cực, cơ bản đang đi vào ổn định, đúng hướng, trúng, đúng với nguyện vọng của nhân dân, giải quyết khó khăn, vướng mắc đã tồn tại nhiều năm qua.
Từ ngày 01/6 - 23/8/2025, Chính phủ đã ban hành 112 Nghị định, Nghị quyết quy phạm pháp luật (tính riêng từ ngày 01/8/2025 đến ngày 23/8/2025, Chính phủ đã ban hành 16 nghị định) cùng nhiều văn bản hướng dẫn, tập trung vào các lĩnh vực then chốt như quốc phòng, thanh tra, môi trường, tài chính, giáo dục, khoa học, công nghệ, tổ chức bộ máy, chế độ công vụ tạo hành lang pháp lý đầy đủ, đồng bộ cho mô hình mới. Đây là cơ sở quan trọng để các địa phương thống nhất triển khai, bảo đảm tính hợp pháp, hợp hiến và hiệu lực quản lý nhà nước.
Các địa phương đã cơ bản hoàn thành việc sắp xếp, kiện toàn với 465 cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh, 9.916 phòng chuyên môn cấp xã được thành lập, đi vào hoạt động ổn định. Cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ nhiệm vụ được rà soát, bổ sung; nhiều xã, phường được trang bị thêm trụ sở, phương tiện làm việc, đáp ứng yêu cầu quản lý, điều hành tại cơ sở.
Việc giải quyết chế độ, chính sách cho đội ngũ sau sắp xếp được triển khai kịp thời, minh bạch. Đến ngày 19/8/2025, cả nước có 94.402 người đã có quyết định nghỉ việc; tổng số người đang trình cấp có thẩm quyền phê duyệt kinh phí và số người đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt kinh phí là 81.410 người; trong đó 75.710 người đã được giải quyết kinh phí theo quy định. Điều này thể hiện sự quan tâm, chăm lo thiết thực của Đảng, Nhà nước, bảo đảm quyền lợi cho cán bộ, công chức, viên chức, đồng thời tạo sự đồng thuận, ổn định trong đội ngũ.
Các bộ, ngành đã tổ chức hội nghị tập huấn, với hơn 3.300 điểm cầu trực tuyến trên toàn quốc, tập trung phổ biến, cập nhật quy định mới, nâng cao năng lực quản lý cho hàng chục nghìn cán bộ, công chức, viên chức các cấp. Nội dung bao trùm các lĩnh vực pháp luật, tài chính, giáo dục, lao động, ngoại giao, thương mại, nông nghiệp, môi trường, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, y tế, văn hóa, thể thao và du lịch..., góp phần nâng cao tính chuyên nghiệp, hiệu quả trong thực thi công vụ.
Thực hiện cải cách hành chính và chuyển đổi số, từ 01/7/2025 đến ngày 23/8/2025, tổng số hồ sơ tiếp nhận của 34 tỉnh, thành phố là 6,5 triệu hồ sơ thủ tục hành chính, trong đó cấp xã 4,8 triệu hồ sơ thủ tục hành chính; có 73,8% hồ sơ trực tuyến; 80% tổng số hồ sơ tiếp nhận đã được trả kết quả cho người dân,... Việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, số hóa, liên thông dữ liệu quốc gia đã góp phần nâng cao tính minh bạch, hiệu quả, giảm thời gian, chi phí cho người dân, doanh nghiệp.
Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, dư luận xã hội đánh giá tích cực, đồng tình với chủ trương, chính sách đổi mới. Nhân dân, cán bộ, đảng viên bày tỏ niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo của Chính phủ trong xây dựng mô hình chính quyền 02 cấp.
Những kết quả đạt được đã khẳng định tính đúng đắn, kịp thời của chủ trương cải cách, tạo nền tảng vững chắc để tiếp tục hoàn thiện, vận hành hiệu quả mô hình chính quyền địa phương 02 cấp trong thời gian tới.
Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn một số hạn chế, khó khăn cần tập trung khắc phục như: Việc kiện toàn tổ chức bộ máy và nhân sự ở địa phương sau sáp nhập còn gặp khó khăn. Nguồn nhân lực ở cấp cơ sở hiện nay nhìn chung vừa thừa, vừa thiếu, vừa hạn chế về chất lượng chuyên môn lẫn kỹ năng công nghệ. Một số địa phương còn thiếu hoặc có trụ sở xuống cấp, chật hẹp, phân tán; trung tâm hành chính công xa, chưa thuận lợi cho người dân. Việc xử lý trụ sở dôi dư theo phương án chuyển đổi công năng thành các cơ sở y tế, giáo dục, công trình công cộng còn gặp khó khăn. Cơ chế tài chính - ngân sách chưa theo kịp mô hình mới trong khi địa bàn quản lý rộng hơn. Việc phân công nhiệm vụ chi ngân sách sau sắp xếp còn nhiều vướng mắc, một số nhiệm vụ được giao chưa thống nhất giữa các đơn vị. Hạ tầng công nghệ thông tin từ trung ương đến địa phương còn thiếu đồng bộ, gây khó khăn cho việc liên thông, chưa bảo đảm dịch vụ công toàn trình. Công tác tuyên truyền, phổ biến về mô hình chính quyền địa phương 2 cấp ở vài nơi chưa thật sự sâu rộng; một bộ phận Nhân dân, cán bộ, công chức vẫn chưa quen với cách thức vận hành mới...
Để tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ bảo đảm tổ chức bộ máy của đơn vị hành chính 2 cấp hoạt động ổn định, thông suốt, phục vụ người dân và doanh nghiệp ngày càng tốt hơn; thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, tại Nghị quyết 268/NQ-CP, ngày 31/8/2025 về tình hình triển khai thực hiện và vận hành mô hình chính quyền địa phương 02 cấp, Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, địa phương theo chức năng tập trung thực hiện một số nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, gồm các nhóm về: thể chế; giải quyết thủ tục hành chính tại cấp cơ sở; công tác quy hoạch, đất đai; tổ chức bộ máy và biên chế, công tác cán bộ; việc cử cán bộ của các bộ, ngành xuống địa phương; việc thực hiện chính sách, chế độ đối với đối tượng cán bộ, công chức, viên chức, người lao động chịu sự tác động do sắp xếp tổ chức bộ máy; về tài chính, ngân sách và tài sản công; về hạ tầng thông tin, hạ tầng số; về cơ sở dữ liệu; truyền thông; công tác thanh tra, kiểm tra; tổ chức thực hiện.
3. Nhân rộng mô hình câu lạc bộ liên thế hệ tự giúp nhau trong toàn quốc
Với mục tiêu nâng cao nhận thức của cán bộ, hội viên, người cao tuổi về chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về bảo vệ, chăm sóc, phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn mới. Nâng cao chất lượng hoạt động của các câu lạc bộ liên thế hệ tự giúp nhau, đảm bảo hoạt động thực chất, hiệu quả, bền vững. Mở rộng độ bao phủ mạng lưới câu lạc bộ liên thế hệ tự giúp nhau góp phần thực hiện Chiến lược quốc gia về người cao tuổi, thích ứng với già hóa dân số. Phát huy tiềm năng, vai trò, kinh nghiệm của người cao tuổi tham gia khởi nghiệp, tạo việc làm, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh phù hợp với nguyện vọng, nhu cầu, khả năng, tăng thu nhập cho người cao tuổi, thực hiện khát vọng “người cao tuổi sống vui, sống khoẻ, sống hạnh phúc”, góp phần đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc. Phấn đấu đến năm 2035, cả nước thành lập mới ít nhất 12.000 câu lạc bộ liên thế hệ tự giúp nhau. Duy trì đảm bảo chất lượng hoạt động và quản lý 100% các câu lạc bộ liên thế hệ tự giúp nhau đã thành lập ở giai đoạn trước và các câu lạc bộ liên thế hệ tự giúp nhau mới thành lập.
Giai đoạn 2025-2030, phấn đấu 100% cán bộ tham gia triển khai Đề án được nâng cao nhận thức, phương pháp hỗ trợ Ban chủ nhiệm câu lạc bộ liên thế hệ tự giúp nhau thành lập, xây dựng và quản lý câu lạc bộ liên thế hệ tự giúp nhau; 30% hội viên, người cao tuổi và cộng đồng được tuyên truyền nâng cao nhận thức, kiến thức về câu lạc bộ liên thế hệ tự giúp nhau; xây dựng thành lập mới ít nhất 6.000 câu lạc bộ liên thế hệ tự giúp nhau, thu hút ít nhất 300.000 người cao tuổi tham gia, trong đó tỷ lệ nữ người cao tuổi chiếm 50-60%; 100% xã, phường khu vực đồng bằng và 70% xã, phường khu vực miền núi, biên giới, hải đảo có ít nhất từ 1-3 câu lạc bộ liên thế hệ tự giúp nhau hoạt động đạt chuẩn; 20% số thôn, làng, bản, buôn, ấp, khóm, tổ dân phố, khu dân cư, đặc khu trên cả nước có câu lạc bộ liên thế hệ tự giúp nhau.
08 nội dung hoạt động của các câu lạc bộ liên thế hệ tự giúp nhau có lồng ghép với nhiệm vụ của Đề án người cao tuổi tham gia đẩy mạnh chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, khởi nghiệp và tạo việc làm; từng bước xây dựng mạng lưới chăm sóc, phát huy vai trò người cao tuổi tại cộng đồng; 50% câu lạc bộ đảm bảo sinh hoạt đủ 8 nội dung hoạt động theo quy định, duy trì sinh hoạt định kỳ hằng tháng; 50% câu lạc bộ thực hiện nhiệm vụ người cao tuổi tham gia chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, khởi nghiệp, tạo việc làm; 100% Ban Chủ nhiệm câu lạc bộ được tập huấn ban đầu và tập huấn nhắc lại hằng năm về nâng cao năng lực quản lý, vận hành theo quy chế chuẩn; 50-70% câu lạc bộ có quỹ tăng thu nhập đạt từ 50 triệu đồng trở lên; 50% thành viên của câu lạc bộ liên thế hệ tự giúp nhau có nhu cầu được hỗ trợ vay vốn hoặc tham gia hoạt động tăng thu nhập, cải thiện đời sống.
Giai đoạn 2030-2035, phấn đấu 100% cán bộ tham gia triển khai đề án được nâng cao nhận thức, phương pháp hỗ trợ Ban chủ nhiệm câu lạc bộ liên thế hệ tự giúp nhau thành lập, xây dựng và quản lý câu lạc bộ; 50% hội viên, người cao tuổi và cộng đồng được tuyên truyền nâng cao nhận thức, kiến thức về câu lạc bộ liên thế hệ tự giúp nhau; tiếp tục xây dựng thành lập mới ít nhất 6.000 câu lạc bộ liên thế hệ tự giúp nhau, thu hút ít nhất 360.000 người cao tuổi tham gia, trong đó tỷ lệ nữ người cao tuổi chiếm 50-60%; 100% xã, phường khu vực đồng bằng và 85% xã, phường khu vực miền núi, dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo có ít nhất từ 04-06 câu lạc bộ liên thế hệ tự giúp nhau hoạt động đạt chuẩn; 30% số thôn, bản, buôn, ấp, khóm, tổ dân phố trên cả nước có câu lạc bộ liên thế hệ tự giúp nhau, 08 nội dung hoạt động của các câu lạc bộ được lồng ghép với nhiệm vụ của Đề án người cao tuổi tham gia đẩy mạnh chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, khởi nghiệp tạo việc làm; từng bước xây dựng mạng lưới chăm sóc, phát huy vai trò người cao tuổi tại cộng đồng.
Đề án nhân rộng câu lạc bộ liên thế hệ tự giúp nhau đến năm 2035 được Thủ tướng phê duyệt bởi Quyết định số 1648/QĐ-TTg ngày 01/8/2025 đề ra các nhóm nhiệm vụ, giải pháp sau: Nhân rộng câu lạc bộ liên thế hệ tự giúp nhau trên toàn quốc; nâng cao chất lượng hoạt động của các câu lạc bộ liên thế hệ tự giúp nhau hiện có; tăng cường, phát huy sự chủ động của chính quyền địa phương trong huy động và hỗ trợ nguồn lực (cơ sở vật chất, tài chính, nhân lực); phối hợp với các cơ quan báo chí trung ương và địa phương để xây dựng chuyên mục, phóng sự về hiệu quả của câu lạc bộ liên thế hệ tự giúp nhau; thiết lập cơ chế báo cáo định kỳ từ cấp cơ sở lên tỉnh và trung ương để theo dõi tiến độ, chất lượng và nắm bắt thông tin, điều chỉnh kịp thời trong quá trình triển khai thực hiện. Ứng dụng công nghệ thông tin phù hợp để hỗ trợ người cao tuổi trong quản lý hoạt động câu lạc bộ liên thế hệ tự giúp nhau và lưu trữ dữ liệu. Khen thưởng kịp thời các địa phương, đơn vị, câu lạc bộ, cá nhân có thành tích xuất sắc trong phong trào câu lạc bộ liên thế hệ tự giúp nhau.
4. Một số nhiệm vụ trọng tâm của năm học mới 2025-2026
Năm học 2024-2025, ngành Giáo dục đã đạt được một số kết quả nổi bật, như: Đã có sự đột phá trong hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển giáo dục - đào tạo; tích cực, chủ động triển khai hiệu quả công tác sắp xếp tổ chức bộ máy và thực hiện chính quyền địa phương 02 cấp; tiếp tục duy trì và nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, kết quả năm học này cao hơn năm học trước ở tất cả các chỉ tiêu của tất cả các cấp/bậc học; các điều kiện bảo đảm chất lượng như đội ngũ nhà giáo, cơ sở vật chất tiếp tục được tăng cường; đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong giáo dục - đào tạo; chất lượng giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học chuyển biến tích cực.
Năm học 2025-2026 là năm học cả nước triển khai thực hiện Nghị quyết số 71-NQ/TW, ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục - đào tạo và các luật sửa đổi trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo. Tại Lễ kỷ niệm 80 năm truyền thống ngành Giáo dục và khai giảng năm học 2025-2026 (ngày 05/9/2025), Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh một số nhiệm vụ quan trọng của năm học 2025-2026 và trong giai đoạn mới như sau:
Thứ nhất, đổi mới mạnh mẽ tư duy và hành động. Chuyển từ cải cách “chỉnh sửa” sang tư duy kiến tạo - dẫn dắt phát triển quốc gia bằng giáo dục; lấy chất lượng - công bằng - hội nhập - hiệu quả làm thước đo; siết chặt kỷ luật thực thi.
Thứ hai, bảo đảm tiếp cận bình đẳng trong giáo dục, nâng cao mặt bằng dân trí. Không để bất kỳ trẻ em nào bị bỏ lại phía sau; ưu tiên vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng khó khăn; tăng đầu tư trường lớp - dinh dưỡng học đường - đội ngũ thầy cô - hạ tầng số. Trước mắt, thí điểm đầu tư hoàn thành xây mới hoặc cải tạo 100 trường trong năm 2025, hoàn thành chậm nhất là đến thời điểm khai giảng năm học sau.
Thứ ba, đổi mới giáo dục phổ thông theo hướng toàn diện. Không chỉ truyền thụ tri thức, mà còn nuôi dưỡng nhân cách - rèn luyện thể chất - bồi dưỡng tâm hồn, khơi dậy tinh thần công dân, ý thức kỷ luật và trách nhiệm xã hội; hình thành lớp người “vừa giỏi giang, vừa nhân ái, vừa kiên cường”; phấn đấu sớm phổ cập giáo dục phổ thông.
Thứ tư, tạo đột phá trong giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp. Đại học phải trở thành trung tâm sản sinh tri thức, công nghệ, là hạt nhân đổi mới sáng tạo - khởi nghiệp; gắn chặt đào tạo - nghiên cứu - chuyển giao với nhu cầu phát triển đất nước. Cần hình thành những đại học lớn có tầm vóc khu vực và quốc tế, những cơ sở đào tạo nghề hiện đại, để đào tạo ra đội ngũ nhân lực chất lượng cao, góp phần đưa đất nước bứt phá trong khoa học - công nghệ, công nghiệp hóa và chuyển đổi số.
Thứ năm, đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong giáo dục. Hội nhập để học hỏi tinh hoa, thu hẹp khoảng cách, lan tỏa chuẩn mực; khuyến khích đồng đào tạo, liên kết chương trình, công nhận tín chỉ, trao đổi giảng viên - sinh viên, thu hút học giả quốc tế; qua đó nâng cao vị thế giáo dục Việt Nam.
Thứ sáu, chăm lo xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Thầy cô là linh hồn của giáo dục, là nhân tố quyết định sự thành bại của đổi mới. Thầy cô không chỉ truyền đạt kiến thức, mà còn gieo mầm khát vọng, hun đúc nhân cách, thắp sáng niềm tin cho học trò. Bởi vậy, bản thân các thầy cô cũng phải không ngừng học tập, sáng tạo, nêu gương mẫu mực. Luật Nhà giáo đã được Quốc hội thông qua là nền tảng để bảo đảm nâng cao đời sống vật chất, quyền, lợi ích hợp pháp, đồng thời nâng cao chuẩn nghề nghiệp, đạo đức, trách nhiệm và vị thế xã hội của nhà giáo.
Thứ bảy, thúc đẩy chuyển đổi số và trí tuệ nhân tạo (AI) trong giáo dục. Biến công nghệ thành cú hích cho đổi mới căn bản, toàn diện: dạy và học linh hoạt, học liệu mở, nền tảng số an toàn, nhân văn; nâng cao năng lực số cho giáo viên - học sinh; bảo đảm an ninh, an toàn dữ liệu.
Thứ tám, ưu tiên đầu tư cho giáo dục. Đầu tư cho giáo dục chính là đầu tư cho tương lai dân tộc. Quy hoạch tổng thể, sắp xếp hệ thống (nhất là đại học công lập) để hình thành những trung tâm đào tạo - nghiên cứu - đổi mới sáng tạo ngang tầm khu vực, vươn tầm quốc tế; sử dụng chi tiêu công hiệu quả, không dàn trải; tăng cường hợp tác công - tư, huy động mạnh mẽ các nguồn lực xã hội cùng chung tay cho sự nghiệp trồng người.
Thứ chín, xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời. Trong thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tri thức thay đổi từng ngày, từng giờ; điều hôm nay tiên tiến, ngày mai có thể đã lạc hậu. Vì vậy, học tập không chỉ là nhu cầu cá nhân, mà trước hết phải được nhìn nhận như một trách nhiệm chính trị, một hành động cách mạng thường trực của mỗi người dân.
Xây dựng xã hội học tập, khuyến khích học tập suốt đời chính là nền tảng vững chắc nhất cho một dân tộc tự cường. Đó không chỉ là hành trang của mỗi cá nhân, mà còn là giá trị cốt lõi của quốc gia, bảo đảm cho dân tộc ta tiến cùng thời đại, khẳng định bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam trên trường quốc tế.
5. Một số nhiệm vụ trọng tâm nhằm hoàn thành mục tiêu xóa nhà tạm, nhà dột nát trên phạm vi cả nước trong thời gian tới
Để phát huy những kết quả, thành tích đã đạt được về xóa nhà tạm, nhà dột nát, đồng thời tiếp tục làm tốt hơn nữa công tác an sinh xã hội trong thời gian tới, tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc Tổng kết Chương trình và Phong trào thi đua Cả nước chung tay xóa nhà tạm, nhà dột nát trong năm 2025 (ngày 26/8/2025), Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo một số nhiệm vụ sau:
Quán triệt sâu sắc và triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 42-NQ/TW của Trung ương về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội. Xác định việc chăm lo, hỗ trợ nhà ở đối với người có công, hộ nghèo, hộ cận nghèo, cho người dân sinh sống tại khu vực thường xuyên bị thiên tai, ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục, lâu dài. Các bộ, ngành, địa phương cần tiếp tục rà soát, sớm hoàn thiện chính sách hỗ trợ về nhà ở.
Đối với 334.234 hộ đã được hỗ trợ xóa nhà tạm, nhà dột nát - đây mới chỉ là nền tảng bước đầu để an cư, thời gian tới cần tiếp tục hỗ trợ để các hộ này để lạc nghiệp, phấn đấu đến năm 2030 Việt Nam cơ bản không còn hộ nghèo theo tinh thần Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 23/6/2021 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giảm nghèo bền vững đến năm 2030.
Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương quán triệt chủ trương của Đảng về sử dụng ngân sách nhà nước là nguồn lực chủ yếu, nền tảng trong bảo đảm an sinh xã hội đi cùng với huy động nguồn lực xã hội, nhất là trong đào tạo nghề, giải quyết sinh kế, việc làm cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số; gắn trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền địa phương trong việc huy động, quản lý, sử dụng nguồn lực thực hiện chính sách hỗ trợ đào tạo nghề, giải quyết sinh kế, việc làm, y tế, giáo dục, nhà ở..., trước hết là đối với những hộ được hỗ trợ xóa nhà tạm, nhà dột nát. Ban Thi đua Khen thưởng Trung ương cần tiếp tục cải tiến, nâng cao hơn nữa chất lượng các phong trào thực hiện các chương trình an sinh xã hội và các phong trào khác, bảo đảm lay động được tâm can của toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị chung tay thực hiện, vì quyền lợi, nguyện vọng chính đáng của đồng bào ta.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tích cực phối hợp hơn nữa với Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương trong công tác bảo đảm an sinh xã hội; thực hiện tốt việc giám sát, phản biện quá trình xây dựng và thực hiện chính sách an sinh xã hội; thường xuyên quan tâm, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của người dân, kiến nghị với các cấp ủy đảng, chính quyền và các cơ quan nhà nước các cấp kịp thời giải quyết các vấn đề liên quan, bảo đảm quyền lợi người của người dân. Bộ Quốc phòng, Bộ Công an chỉ đạo các lực lượng vũ trang nhân dân tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng, gắn bó máu thịt với nhân dân, vừa là lực lượng nòng cốt bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia, vừa là chỗ dựa vững chắc trong phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm an sinh cho đồng bào, nhất là ở vùng biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa.
6. Tăng cường các giải pháp bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường sắt
Thời gian qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cùng sự vào cuộc của các bộ, ngành, địa phương, công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường sắt đã có nhiều chuyển biến tích cực, tai nạn giao thông liên quan đến đường sắt được kiềm chế, góp phần nâng cao hiệu quả khai thác đường sắt phục vụ phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên, tình hình trật tự an toàn giao thông đường sắt vẫn diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây tai nạn giao thông,
Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả công tác bảo đảm an toàn giao thông đường sắt, cần thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp từ Trung ương tới địa phương để chủ động phòng ngừa, ngăn chặn, giảm tai nạn giao thông đường sắt, tại Chỉ thị số 22/CT-TTg, ngày 18/8/2025, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu:
Từng bộ, ngành, địa phương theo chức năng, nhiệm vụ được giao rà soát các chương trình, kế hoạch, nhiệm vụ được phân công để thực hiện hiệu quả các chủ trương chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường sắt, trieiển khai các giải pháp bảo đảm an toàn cho hoạt động của đường sắt và hoạt động của nhân dân các khu vực có đường sắt đi qua; phân công rõ nhiệm vụ chủ trì, phối hợp, có cơ chế kiểm soát tiến độ, chất lượng các nhiệm vụ; xem xét, xử lý trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, đơn vị, chính quyền địa phương thiếu quan tâm, chỉ đạo, thanh tra, kiểm tra, giám sát hoặc thực hiện không đầy đủ chức trách, nhiệm vụ trong phạm vi quản lý để xảy ra mất an toàn giao thông, tai nạn giao thông đường sắt.
Tăng cường công tác quản lý nhà nước trong hoạt động vận tải đường sắt, tổ chức thực hiện nghiêm các quy định về điều kiện kinh doanh đường sắt; rà soát các vị trí xung yếu trên các tuyến đường sắt, các cầu, hầm đường sắt, đường ngang, phát hiện các điểm tiềm ẩn tai nạn giao thông đường sắt, các bất cập về tổ chức giao thông tại vị trí đường ngang, đề ra biện pháp khắc phục về kết cấu hạ tầng giao thông đường sắt; tăng cường kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật, các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường sắt đối với nhân viên đường sắt trực tiếp phục vụ chạy tàu, chất lượng sửa chữa, bảo trì kết cấu hạ tầng đường sắt; kiểm soát, xử phạt nghiêm các hành vi vi phạm hành lang an toàn giao thông đường sắt, vi phạm tại đường ngang, lối đi tự mở qua đường sắt theo quy định.
Đẩy nhanh tiến độ các dự án hạ tầng giao thông đường sắt, các dự án trọng điểm; có giải pháp bảo đảm an toàn cho người tham gia giao thông trong quá trình thi công, cải tạo, sửa chữa hạ tầng giao thông đường sắt; tăng cường kiểm tra, xử lý các hành vi xâm phạm kết cấu hạ tầng giao thông đường sắt; rà soát, bổ sung đầy đủ các biển báo hiệu, vạch dừng, gờ, gồ giảm tốc tại các điểm giao cắt giữa đường bộ và đường sắt trong phạm vi quản lý và kết nối tín hiệu đường bộ, đường sắt tại các đường ngang trên quốc lộ để cảnh báo, hướng dẫn người dân qua, lại an toàn; xử lý dứt điểm lối đi tự mở qua đường sắt để đánh giá kết quả đã làm được, các tồn tại vướng mắc trong quá trình thực hiện và đề xuất lộ trình thực hiện tiếp theo.
Tăng cường kiểm tra người điều khiển phương tiện đường bộ tham gia giao thông tại đường ngang, lối đi tự mở; kiểm tra việc chấp hành các quy định về an toàn đối với phương tiện đường sắt, về tiêu chuẩn, điều kiện và việc chấp hành quy trình tác nghiệp của các chức danh nhân viên đường sắt trực tiếp phục vụ chạy tàu... để kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm theo quy định; điều tra xử lý nghiêm các vụ tai nạn giao thông đường sắt đúng quy định của pháp luật; tuyên truyền, phổ biến pháp luật về đường sắt thường xuyên, rộng rãi đến người dân; cảnh báo các nguy cơ, hậu quả tai nạn giao thông tại lối đi tự mở, đường ngang, hậu quả, tác hại của việc ném đất, đá lên tàu; chỉ đạo các tổ chức cung cấp dịch vụ thông tin dẫn đường tích hợp các vị trí đường ngang, giao cắt với đường sắt vào cơ sở dữ liệu để cảnh báo người sử dụng trước khi đi qua giao cắt với đường sắt.
Bố trí nguồn vốn để thực hiện việc xây dựng mới, sửa chữa khắc phục các điểm xung yếu trên các tuyến đường sắt, các công trình cầu, hầm, đường ngang, nhất là ưu tiên bố trí vốn để triển khai thực hiện các hạng mục công việc theo kế hoạch, lộ trình xóa bỏ các lối đi tự mở đã được phê duyệt; xây dựng kế hoạch chi tiết, cụ thể, ưu tiên kinh phí đầu tư để xử lý triệt để điểm đen, điểm tiềm ẩn tai nạn giao thông đường sắt, lối đi tự mở; kiên quyết thu hồi diện tích đất đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho tổ chức, cá nhân trong phạm vi hành lang an toàn giao thông đường sắt tại các vị trí điểm đen, điểm tiềm ẩn tai nạn giao thông theo quy định pháp luật; hoàn thành việc lập hồ sơ quản lý đất dành cho đường sắt theo quy định của Luật Đường sắt và quy định pháp luật về đất đai; xử lý, giải tỏa các công trình vi phạm lấn chiếm, sử dụng trái phép hành lang an toàn giao thông đường sắt và kết cấu hạ tầng giao thông đường sắt.
7. Một số kết quả Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025, định hướng nội dung giai đoạn 2026-2030
Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025 đã hoàn thành và vượt mức 06/09 nhóm mục tiêu đề ra, trong đó đáng chú ý là chỉ tiêu giảm nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số, chỉ tiêu thu nhập bình quân đầu người đã tăng khá và vượt kế hoạch, chất lượng tiếp cận các dịch vụ chất lượng như giáo dục, y tế, các nguồn lực phát triển đã đảm bảo tốt hơn, bình đẳng hơn, đời sống vật chất và tinh thần của người dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi được nâng lên đáng kể so với trước. Đây là kết quả quan trọng, cơ bản, rất đáng biểu dương trong điều kiện giai đoạn 2021-2025 có nhiều khó khăn, thách thức như dịch bệnh Covid-19; tình hình chính trị thế giới có nhiều biến động; chiến tranh thương mại, thị trường thế giới có nhiều bất ổn; thiên tai, lũ lụt gây thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Tại Hội nghị toàn quốc tổng kết Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025, định hướng nội dung giai đoạn 2026-2030, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu:
Các bộ, ngành, địa phương tiếp tục nâng cao về nhận thức đầu tư cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi là đầu tư cho phát triển, không những là trách nhiệm, nghĩa vụ cao cả của mình mà còn là tình cảm, mệnh lệnh của trái tim, bằng tình dân tộc, nghĩa đồng bào, sự chia sẻ, tính nhân văn cao đẹp để làm tất cả vì đồng bào, nói thật, làm thật và hiệu quả thật, để không ai bị bỏ lại phía sau. Tiếp tục hoàn thiện về thể chế, cơ chế, chính sách theo chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tổ chức thực hiện của các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội. Duy trì độc lập Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; bảo đảm bình đẳng nhưng cần đặc biệt chú ý đến các dân tộc thiểu số dễ bị tổn thương. Cân đối ưu tiên bố trí nguồn lực cho Chương trình trong giai đoạn 2026-2030 tăng khoảng 10-15% so với giai đoạn 2021-2025. Huy động các nguồn vốn Trung ương, địa phương và các nguồn vốn hợp pháp khác để thực hiện Chương trình.
Thiết kế triển khai thực hiện Chương trình theo tinh thần giao cho các địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm; Trung ương chủ yếu thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, bố trí nguồn lực hợp pháp và tập trung xây dựng cơ chế, chính sách về tạo công ăn, việc làm, sinh kế cho người dân; thực hiện mục tiêu tiếp cận bình đẳng y tế, giáo dục, văn hóa - xã hội, nhất là y tế cơ sở, y tế dự phòng; giáo dục tập trung xây dựng, hoàn thiện đồng bộ các trường học, trong đó xây dựng bổ sung hoàn thiện hệ thống trường dân tộc nội trú ở các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bộ với việc xây dựng 248 trường ở khu vực các xã biên giới đang triển khai; lưu ý đến nguồn lực con người, ưu tiên đầu tư đào tạo đội ngũ y, bác sỹ, giáo viên; giành nguồn lực để phát triển hạ tầng giao thông, thủy lợi, điện, nước, viễn thông, đảm bảo tính bền vững trong phát triển của địa bàn các xã, thôn bản vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Xây dựng cơ chế chính sách phát triển liên kết cộng đồng, liên kết giữa cộng đồng dân tộc thiểu số với cộng đồng dân tộc người Kinh, hình thành các hợp tác xã, các doanh nghiệp, phát triển từ hộ kinh doanh lên doanh nghiệp, doanh nghiệp nhỏ lên doanh nghiệp lớn. Chú trọng phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Thiết kế chương trình trong đó đầu tư các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng gắn với thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Xây dựng các chính sách an sinh thiết thực, cụ thể, bám sát tình hình thực tế. Tiếp tục triển khai có hiệu quả Chương trình 1 triệu héc ta lúa chất lượng cao, phát thải thấp tại vùng đồng bằng sông Cửu Long. Gắn kết giữa phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh - quốc phòng, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thế trận lòng dân vững chắc. Phát huy hiệu quả, tính tiên phong, tính gương mẫu, uy tín của già làng, trưởng bản, người có uy tín, chức sắc tôn giáo trong vùng đồng bào dân tộc và miền núi. Đầu tư cho ngân sách thực hiện các nhiệm vụ Đảng và Nhà nước giao.
Có chính sách ưu tiên đầu tư thực hiện các Nghị quyết “bộ tứ trụ cột” của Bộ Chính trị (Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết số 59-NQ/TW, ngày 24/01/2025 về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; Nghị quyết số 66-NQ/TW, ngày 30/4/2025 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới; Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 về phát triển kinh tế tư nhân). Xác định đây là cơ sở, tiền đề để vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi cùng chung tay, đồng lòng, vượt qua mọi khó khăn, biến khát vọng thành hành động, biến tiềm năng thành sức mạnh thực tế, để cùng đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc. Phát huy, bảo tồn, phát triển văn hóa đậm đà bản sắc của các dân tộc, trong đó giữ gìn chữ viết, tiếng nói, văn hóa dân tộc là vấn đề quan trọng, góp phần vào phát triển công nghiệp văn hóa, công nghiệp giải trí; biến văn hóa thành nguồn lực, biến di sản thành tài sản, thành sức mạnh nội sinh để đồng bào, nhân dân được hưởng thụ từ chính nền văn hóa của mình. Xây dựng gói tín dụng ưu tiên (Ngân hàng Nhà nước chủ trì), đồng thời có chính sách về tài khóa, tiếp cận đất đai, giảm thuế, phí, lệ phí. Kết hợp cả chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa, để đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi thoát nghèo bền vững và làm giàu chính đáng.
Bộ Dân tộc và Tôn giáo chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan trung ương khẩn trương tham mưu kết cấu lại nội dung Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2026-2030 theo hướng tập trung nội dung đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, xác định quy định cụ thể, rõ ràng, dễ hiểu, dễ áp dụng thực hiện, hiệu quả cao; khẩn trương trình Chính phủ hồ sơ Nghị định quy định tiêu chí phân định vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2026-2030 để ban hành trong tháng 8/2025.
Bộ Tài chính tham mưu, bố trí đủ nguồn lực thực hiện Chương trình giai đoạn II, đảm bảo các mục tiêu đề ra của Chương trình. Các bộ, cơ quan chủ các dự án, tiểu dự án thành phần của Chương trình: Căn cứ nội dung Kết luận số 177-KL/TW, ngày 11/7/2025 của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về tiếp tục xây dựng tổ chức, hoạt động của đơn vị hành chính 2 cấp bảo đảm thông suốt, hiệu quả; Công điện số 110/CĐ-TTg, ngày 17/7/2025 của Thủ tướng Chính phủ về tiếp tục tập trung triển khai các nghị quyết của Trung ương, kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về sắp xếp tổ chức bộ máy và đơn vị hành chính; để tiếp tục triển khai đồng bộ, hiệu quả, phấn đấu hoàn thành các nhiệm vụ, mục tiêu của Chương trình. Hướng dẫn các địa phương hiểu đúng, đầy đủ và tổ chức triển khai thực hiện hiệu quả các nội dung của Chương trình.
Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo các xã tích cực rà soát và khẩn trương tổ chức triển khai thực hiện các dự án, tiểu dự án của Chương trình trên địa bàn các xã sau khi sáp nhập; đẩy nhanh tiến độ giải ngân thực hiện các dự án, tiểu dự án đã và đang triển khai thực hiện để phấn đấu hoàn thành toàn bộ các mục tiêu của giai đoạn I Chương trình; đôn đốc các xã, thôn, bản đánh giá, đề xuất nhu cầu đầu tư các nội dung của Chương trình giai đoạn II từ năm 2026-2030.
8. Quy định về đối tượng, tiêu chuẩn và phân cấp đào tạo lý luận chính trị
Quy định số 350-QĐ/TW, ngày 29/8/2025 của Ban Bí thư về đối tượng, tiêu chuẩn và phân cấp đào tạo lý luận chính trị nêu rõ:
Về trung cấp lý luận chính trị, đối tượng là cán bộ đương chức hoặc quy hoạch. Đối với cấp ủy đảng, là cấp ủy viên của chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở trở lên; đối với cán bộ, công chức, viên chức, là phó trưởng phòng (tương đương) trở lên của các cơ quan, đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc cấp xã, cấp tỉnh và thuộc ban, bộ, ngành, cơ quan, đơn vị ở Trung ương; đối với cán bộ quân đội, là chỉ huy cấp tiểu đoàn; phó tham mưu trưởng, phó chủ nhiệm chính trị trung đoàn (tương đương); chỉ huy phòng (ban) cấp lữ đoàn, sư đoàn, bộ chỉ huy quân sự cấp tỉnh (tương đương) trở lên; đối với cán bộ công an, là phó trưởng công an cấp xã, phó đội trưởng (tương đương) trở lên; đối với cán bộ doanh nghiệp, là trưởng ban, trưởng phòng (tương đương) trở lên của công ty (tổng công ty) nhà nước trực thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh; trưởng ban, trưởng phòng (tương đương) trở lên trực thuộc các tập đoàn, công ty (tổng công ty), ngân hàng thương mại nhà nước. Giảng viên trực tiếp giảng dạy chương trình đào tạo trung cấp lý luận chính trị ở các học viện, trường có nhiệm vụ đào tạo trung cấp lý luận chính trị.
Tiêu chuẩn là đảng viên dự bị hoặc chính thức; tốt nghiệp cao đẳng trở lên (tốt nghiệp trung học phổ thông trở lên đối với cán bộ là người dân tộc thiểu số và công tác tại các xã, đặc khu ở khu vực miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn); hai năm liên tục liền kề thời điểm cử đi học được xếp loại hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên; cán bộ học hệ không tập trung: Nữ từ 28 tuổi, nam từ 30 tuổi trở lên. Trường hợp đặc biệt, cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
Về cao cấp lý luận chính trị, đối tượng là cán bộ đương chức: Ủy viên ban chấp hành đảng bộ cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng trở lên (trưởng phòng (tương đương) cấp xã trở lên); cán bộ đương chức hoặc quy hoạch: Cấp ủy đảng (ủy viên ban thường vụ đảng ủy cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng trở lên); cán bộ, công chức, viên chức: Chỉ huy trưởng ban chỉ huy quân sự, chủ tịch hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã (tương đương) trở lên; trưởng phòng (tương đương) cấp tỉnh trở lên; trưởng phòng (tương đương) trở lên thuộc ban, bộ, ngành, cơ quan, đơn vị ở Trung ương; cán bộ quân đội: Trung đoàn trưởng, chính ủy trung đoàn (tương đương); chỉ huy cấp lữ đoàn, sư đoàn, bộ chỉ huy quân sự cấp tỉnh (tương đương); chỉ huy các cơ quan cấp chiến dịch, chiến lược; ban giám đốc bệnh viện, viện nghiên cứu, chủ tịch, ban giám đốc công ty (tổng công ty) doanh nghiệp trực thuộc Bộ Quốc phòng trở lên; cán bộ công an: Trưởng công an cấp xã, phó trưởng phòng (tương đương) trở lên; cán bộ doanh nghiệp: Hội đồng thành viên (quản trị), ban giám đốc (tương đương) trở lên ở các công ty (tổng công ty) nhà nước trực thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh; hội đồng thành viên (quản trị), ban giám đốc (tương đương) trở lên ở các tập đoàn, công ty (tổng công ty), ngân hàng thương mại nhà nước. Giảng viên có đủ 3 năm công tác và sẽ trực tiếp giảng dạy chương trình đào tạo cao cấp lý luận chính trị ở các học viện có nhiệm vụ đào tạo cao cấp lý luận chính trị.
Tiêu chuẩn là đảng viên chính thức; tốt nghiệp đại học trở lên; hai năm liên tục liền kề thời điểm cử đi học được xếp loại hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên; cán bộ học hệ không tập trung: Nữ từ 33 tuổi, nam từ 35 tuổi trở lên. Trường hợp đặc biệt, cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
Trường chính trị cấp tỉnh đào tạo trung cấp lý luận chính trị cho cán bộ của địa phương; các ban, bộ, ngành, cơ quan, đơn vị ở Trung ương; các tập đoàn, công ty (tổng công ty), ngân hàng thương mại nhà nước. Một số học viện, trường của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an đào tạo trung cấp lý luận chính trị cho cán bộ lực lượng vũ trang. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và một số học viện của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an đào tạo cao cấp lý luận chính trị.
Thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan đào tạo trung cấp: Tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương (gọi chung là cấp ủy cấp tỉnh) lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các quy định của Trung ương; xây dựng, ban hành các quy định, quy chế đào tạo cán bộ theo thẩm quyền; xây dựng kế hoạch toàn khóa và hằng năm về đào tạo cán bộ và kiểm tra, giám sát việc thực hiện công tác đào tạo lý luận chính trị theo thẩm quyền phân cấp. Ban tổ chức cấp ủy cấp tỉnh, đơn vị chức năng thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an rà soát đội ngũ cán bộ, xác định nhu cầu đào tạo, tham mưu ban thường vụ cấp ủy cấp tỉnh xây dựng kế hoạch đào tạo toàn khóa và hằng năm; thực hiện việc kiểm tra, giám sát công tác đào tạo; định kỳ sơ kết, tổng kết việc thực hiện và báo cáo ban thường vụ cấp ủy cấp tỉnh. Ban tuyên giáo và dân vận cấp ủy cấp tỉnh định hướng về chính trị, tư tưởng trong nội dung đào tạo; hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện và báo cáo ban thường vụ cấp ủy cấp tỉnh.
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn phương pháp giảng dạy, chuyên môn, nghiệp vụ cho giảng viên trường chính trị cấp tỉnh và một số học viện, trường của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an. Trường chính trị cấp tỉnh và các cơ sở đào tạo của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an được giao nhiệm vụ thực hiện kế hoạch, tổ chức và quản lý đào tạo; định kỳ báo cáo công tác đào tạo với ban thường vụ cấp ủy cấp tỉnh và các cơ quan có thẩm quyền liên quan. Ban thường vụ cấp ủy cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng và các cơ quan có thẩm quyền quản lý cán bộ theo quy định, cử cán bộ học trung cấp lý luận chính trị bảo đảm đúng đối tượng, tiêu chuẩn.
Thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan đào tạo cao cấp: Ban Tổ chức Trung ương xây dựng kế hoạch toàn khóa và hằng năm về đào tạo cán bộ, hướng dẫn thực hiện, kiểm tra, giám sát và định kỳ sơ kết, tổng kết việc thực hiện. Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương định hướng về chính trị, tư tưởng trong nội dung đào tạo; hướng dẫn và kiểm tra, giám sát việc thực hiện. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh thực hiện kế hoạch được giao, tổ chức và quản lý đào tạo cao cấp lý luận chính trị; bồi dưỡng, tập huấn giảng viên trực tiếp đào tạo lý luận chính trị; báo cáo công tác đào tạo về Ban Tổ chức Trung ương.
Học viện của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an được giao nhiệm vụ đào tạo cao cấp lý luận chính trị thực hiện kế hoạch, tổ chức và quản lý đào tạo theo quy định; định kỳ báo cáo công tác đào tạo với cơ quan chủ quản và các cơ quan có thẩm quyền liên quan. Ban thường vụ cấp ủy cấp tỉnh; đảng ủy ban, bộ, ngành, cơ quan, đơn vị ở Trung ương; đảng ủy tập đoàn, công ty (tổng công ty), ngân hàng thương mại nhà nước cử cán bộ học cao cấp lý luận chính trị bảo đảm đúng đối tượng, tiêu chuẩn.
Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương