1. Chỉ thị số 52-CT/TW, ngày 03/10/2025 của Ban Bí thư về thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân trong giai đoạn mới
Để thực hiện bảo hiểm y tế (BHYT) toàn dân trong giai đoạn mới, Ban Bí thư yêu cầu cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp quán triệt và thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp sau:
Một là, cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền các cấp tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện hiệu quả các chủ trương, chính sách, pháp luật, chương trình, kế hoạch về BHYT; coi đây là nhiệm vụ chính trị thường xuyên, liên tục, lâu dài và đưa các chỉ tiêu bao phủ về BHYT vào nghị quyết, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội hằng năm và dài hạn; phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong thực hiện chủ trương, chính sách BHYT; tập trung phát triển đối tượng tham gia BHYT, đẩy mạnh bao phủ BHYT theo hộ gia đình. Nhà nước tiếp tục nâng mức hỗ trợ đóng BHYT cho các đối tượng chính sách, người thuộc hộ nghèo, cận nghèo, người khuyết tật, người yếu thế, bảo đảm duy trì bền vững và tăng tỷ lệ dân số tham gia BHYT; đến năm 2026, tỷ lệ bao phủ y tế đạt trên 95% dân số, đến năm 2030 đạt mục tiêu bao phủ BHYT toàn dân.
Hai là, tập trung sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về BHYT đáp ứng mục tiêu bao phủ BHYT toàn dân; nghiên cứu nâng mức đóng BHYT phù hợp với việc mở rộng phạm vi quyền lợi, mức hưởng BHYT; thí điểm, đa dạng hóa các gói BHYT, BHYT bổ sung theo nhu cầu của người dân; tăng cường liên kết, hợp tác giữa BHYT với bảo hiểm sức khoẻ do các doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp để tránh trùng lặp thanh toán chi phí y tế; khuyến khích tạo điều kiện phát triển đa dạng các loại hình bảo hiểm sức khoẻ; huy động, đa dạng, mở rộng các nguồn thu, bảo đảm bền vững và phát triển Quỹ BHYT để phục vụ công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân.
Từ năm 2026, từng bước thực hiện tăng tỷ lệ, mức thanh toán, chi cho phòng bệnh, chẩn đoán, điều trị sớm một số bệnh và đối tượng ưu tiên phù hợp với lộ trình tăng mức đóng BHYT và khả năng cân đối của Quỹ BHYT. Trong đó, mở rộng phạm vi chi trả của BHYT đối với một số dịch vụ y tế phòng bệnh, dinh dưỡng, quản lý bệnh mãn tính, khám sức khỏe định kỳ và khám sàng lọc theo yêu cầu chuyên môn; nghiên cứu cơ chế sử dụng một phần kinh phí từ các quỹ phòng, chống tác hại thuốc lá, thuế rượu, bia, đồ uống có đường... để chi trả cho một số dịch vụ phòng bệnh, quản lý bệnh mãn tính, khám sức khỏe định kỳ, khám sàng lọc, chẩn đoán và phát hiện sớm một số bệnh, đặc biệt là các bệnh không lây nhiễm.
Ba là, đổi mới nội dung, hình thức, phương thức thông tin, tuyên truyền, phổ biến, quán triệt các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về BHYT đúng trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với từng nhóm đối tượng, nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, đoàn thể, tổ chức và người dân về BHYT; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong việc tham gia BHYT, xác định việc tham gia BHYT là quyền lợi và trách nhiệm của mọi người dân và của toàn xã hội.
Bốn là, triển khai hiệu quả các đề án, chương trình, kế hoạch về y tế và BHYT; đổi mới phong cách, thái độ phục vụ, đẩy mạnh việc nâng cao y đức của cán bộ y tế hướng tới sự hài lòng của người bệnh. Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, năng lực chuyên môn nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ trong phòng bệnh và khám, chữa bệnh BHYT, đặc biệt tại y tế cơ sở, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, biển, đảo. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện tính đúng, tính đủ giá dịch vụ y tế dự phòng, khám, chữa bệnh BHYT, đồng thời có cơ chế kiểm soát hiệu quả phòng, chống lãng phí, lạm thu, tăng chỉ định dịch vụ y tế không hợp lý và các hành vi vi phạm pháp luật trong quản lý, sử dụng Quỹ BHYT, bảo đảm quyền lợi cho người tham gia BHYT. Triển khai các giải pháp nhằm giảm gánh nặng chi phí y tế cho người bệnh.
Năm là, tăng cường, nâng cao năng lực cho các cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan tổ chức thực hiện về BHYT ở Trung ương và địa phương; hoàn thiện cơ chế phối hợp thanh tra, kiểm tra, giám sát liên ngành, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm, trục lợi BHYT; đa dạng các loại hình cung ứng dịch vụ BHYT; kiểm soát chi phí khám, chữa bệnh BHYT minh bạch, khoa học, nâng cao năng lực giám định BHYT. Triển khai đầy đủ các phương thức thanh toán BHYT, xác định phương thức hỗ trợ trực tiếp cho người tham gia BHYT khi sử dụng dịch vụ y tế; có giải pháp phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong thanh toán chi phí khám, chữa bệnh BHYT.
Sáu là, hoàn thiện cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh cải cách hành chính, chuyển đổi số toàn diện công tác bảo BHYT; tăng cường ứng dụng trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn để kiểm soát, giám sát dịch vụ khám, chữa bệnh BHYT, bảo đảm cơ sở dữ liệu quốc gia về BHYT liên thông, đồng bộ cơ sở dữ liệu của các bộ, ngành, địa phương với cơ sở dữ liệu quốc gia về y tế.
2. Nghị định số 251/2025/NĐ-CP, ngày 23/9/2025 của Chính phủ, sửa đổi, bổ sung bổ sung một số điều của Nghị định số 172/2025/NĐ-CP, ngày 30/6/2025, quy định về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức.
Nghị định số 251/2025/NĐ-CP sửa đổi Điều 22, 23 của Nghị định số 172/2025/NĐ-CP quy định về thẩm quyền và trình tự, thủ tục xử lý kỷ luật đối với người đã thôi việc, nghỉ hưu.
Về thẩm quyền xử lý kỷ luật đối với người đã thôi việc, nghỉ hưu, Nghị định quy định như sau:
- Trường hợp bị xử lý kỷ luật bằng hình thức xóa tư cách chức vụ, chức danh thì cấp có thẩm quyền bầu, phê chuẩn, quyết định phê duyệt kết quả bầu cử, bổ nhiệm hoặc chỉ định giữ chức vụ, chức danh cao nhất ra quyết định xử lý kỷ luật, trừ trường hợp quy định tại 3, 4 bên dưới. Trong trường hợp này, cấp có thẩm quyền quyết định việc xử lý đối với các chức vụ, chức danh khác có liên quan.
- Trường hợp bị xử lý kỷ luật bằng hình thức khiển trách hoặc cảnh cáo thì cấp có thẩm quyền bầu, phê chuẩn, quyết định phê duyệt kết quả bầu cử, bổ nhiệm hoặc chỉ định giữ chức vụ, chức danh ra quyết định xử lý kỷ luật, trừ trường hợp quy định tại 3, 4 bên dưới.
- Đối với người giữ chức vụ, chức danh trong cơ quan hành chính nhà nước do Thủ tướng Chính phủ trình Quốc hội phê chuẩn thì Thủ tướng Chính phủ ra quyết định xử lý kỷ luật.
- Đối với người giữ chức vụ, chức danh do Quốc hội bầu thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội ra quyết định xử lý kỷ luật.
Về trình tự, thủ tục xử lý kỷ luật đối với người đã thôi việc, nghỉ hưu, Nghị định quy định:
- Trường hợp đã có quyết định xử lý kỷ luật của cấp có thẩm quyền đối với người đã thôi việc, nghỉ hưu có hành vi vi phạm trong quá trình công tác; căn cứ vào quyết định xử lý kỷ luật của cấp có thẩm quyền, cơ quan tham mưu về công tác cán bộ của cấp có thẩm quyền xử lý kỷ luật đề xuất hình thức kỷ luật, thời điểm xử lý kỷ luật và thời gian thi hành kỷ luật.
Trường hợp thuộc thẩm quyền xử lý kỷ luật của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì Thường trực Ủy ban Công tác đại biểu đề xuất hình thức kỷ luật, thời điểm xử lý kỷ luật và thời gian thi hành kỷ luật báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.
Trường hợp thuộc thẩm quyền xử lý kỷ luật của Thủ tướng Chính phủ thì cơ quan có thẩm quyền quản lý, sử dụng trước thời điểm thôi việc, nghỉ hưu đề xuất hình thức kỷ luật, thời điểm xử lý kỷ luật và thời gian thi hành kỷ luật báo cáo Thủ tướng Chính phủ, đồng thời gửi tới Bộ Nội vụ để thẩm định, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
- Trường hợp chưa có quyết định xử lý kỷ luật của cấp có thẩm quyền đối với người đã thôi việc, nghỉ hưu có hành vi vi phạm trong quá trình công tác; cấp có thẩm quyền xử lý kỷ luật quy định ở trên quyết định việc xử lý kỷ luật và chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
- Cấp có thẩm quyền ra quyết định xử lý kỷ luật.
Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 23/9/2025.
Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy An Giang