1. Kết luận số 224-KL/TW, ngày 08/12/2025 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 24/01/2022 của Bộ Chính trị về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
Kết luận nêu rõ: Để thực hiện hiệu quả công tác quản lý quy hoạch, xây dựng và phát triển đô thị trong thời gian tới, Bộ Chính trị yêu cầu cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền các cấp tiếp tục thực hiện quyết liệt các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp được nêu trong Nghị quyết 06; tập trung một số nội dung trọng tâm sau:
Một là, đổi mới tư duy về công tác quy hoạch đô thị, bảo đảm sự nhất quán trong tổ chức thực hiện. Các địa phương khẩn trương rà soát, điều chỉnh Quy hoạch tổng thể hệ thống đô thị và nông thôn, bảo đảm tối ưu việc sắp xếp không gian phát triển phù hợp với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, kết nối đô thị với nông thôn, giữa các đô thị với nhau, kết nối đô thị với các hạ tầng giao thông chiến lược (cảng biển, sân bay, đường cao tốc, đường sắt, đường thủy). Các đô thị đóng vai trò trung tâm phát triển, thúc đẩy liên kết vùng, địa phương và hội nhập quốc tế, đồng thời duy trì bản sắc văn hoá truyền thống. Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về quy hoạch đô thị; xác định rõ tiến độ, trách nhiệm, tăng cường cơ chế phối hợp, đặc biệt là trong quản lý hạ tầng kỹ thuật liên thông giữa các cấp địa phương.
Kết hợp chặt chẽ công tác quy hoạch với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, tạo động lực tăng trưởng mới. Đẩy mạnh sử dụng dữ liệu lớn trong lập, quản lý thực hiện quy hoạch; thiết lập hệ thống dự báo, cảnh báo và bản đồ số theo thời gian thực; nhân rộng mô hình phát triển đô thị xanh, sinh thái “làng trong phố - phố trong làng”. Xác định rõ chức năng và khai thác đa mục tiêu các hạ tầng về giao thông, hạ tầng kỹ thuật, thương mại, dịch vụ, không gian công cộng; xác định trách nhiệm cơ quan đầu mối quản lý nhà nước, cơ chế phối hợp liên ngành, quy định quyền khai thác.
Siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch. Tập trung xử lý dứt điểm tình trạng “quy hoạch treo”; khẩn trương hoàn thành các dự án hạ tầng đô thị chậm tiến độ. Tăng cường quản lý trật tự đô thị, trật tự xây dựng tại các thành phố và các khu vực đang trong quá trình đô thị hóa; đồng bộ giữa quy hoạch, đầu tư, vận hành; kiểm soát chặt chẽ không gian xây dựng; tăng cường vai trò giám sát cộng đồng. Thực hiện nghiêm các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về quy hoạch đô thị và nông thôn. Nghiêm cấm tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tác động, chi phối công tác quy hoạch vì lợi ích cục bộ.
Hai là, trong năm 2026, hoàn thành việc sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật về quy hoạch đô thị và nông thôn; hoàn thiện quy định pháp luật trong các lĩnh vực quản lý, khai thác, sử dụng, đầu tư phát triển đô thị, cấp, thoát nước, đất đai, quy hoạch, xây dựng, hạ tầng kỹ thuật, không gian ngầm, không gian tầm thấp, không gian vũ trụ, không gian công cộng, không gian xanh, mặt nước, mặt biển... đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, cắt giảm thủ tục hành chính, đồng bộ với chính quyền địa phương 2 cấp, phát triển đô thị tăng trưởng xanh, bền vững, chống chịu biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường, kiểm soát ô nhiễm không khí, chất thải, chống ùn tắc giao thông, bảo đảm an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước, phát triển một số tỉnh đủ điều kiện trở thành thành phố.
Ba là, tiếp tục thực hiện hiệu quả Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư; hoàn thành mục tiêu xây dựng 1 triệu căn hộ nhà ở xã hội trước năm 2030; mở rộng đối tượng mua, thuê mua, thuê nhà ở xã hội. Có cơ chế phù hợp thúc đẩy phát triển nhà ở thương mại có giá phù hợp thu nhập của người dân, nhà ở công nhân tại các khu công nghiệp; thành lập, sử dụng hiệu quả Quỹ nhà ở quốc gia. Quản lý phát triển thị trường bất động sản minh bạch, công bằng, bền vững và hài hòa giữa các phân khúc, không để xảy ra tình trạng đầu cơ, đổ vỡ quy mô lớn. Chú trọng phát triển hạ tầng kỹ thuật sử dụng chung; ưu tiên phát triển không gian xanh, không gian công cộng và diện tích mặt nước; ưu tiên ngầm hóa hệ thống điện, viễn thông... tại các khu vực trung tâm, trục giao thông chính, khu vực cải tạo, chỉnh trang, tái thiết đô thị. Có chế tài nghiêm khắc đối với các chủ đầu tư không triển khai đầu tư đồng bộ hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội... tại các khu đô thị, khu nhà ở.
Bốn là, quản lý, phát triển đô thị và phát triển kinh tế đô thị theo chiều sâu, dựa trên khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; chủ động tiếp cận, đón đầu và phát huy các xu hướng phát triển mới của đô thị theo hướng thúc đẩy sáng tạo, khởi nghiệp; phát triển mạnh thương mại điện tử, tài chính số, logistics thông minh, hạ tầng dữ liệu và các dịch vụ du lịch, văn hoá, giáo dục, y tế chất lượng cao.
Khai thác, phát huy hiệu quả, bền vững các nguồn lực từ chính đô thị để phát triển, hiện đại hóa đô thị; huy động đa dạng các nguồn lực xã hội phát triển các dự án hạ tầng trọng điểm, cấp bách về giao thông, môi trường, phòng, chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu. Ưu tiên bố trí nguồn lực phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đa phương thức kết nối các đô thị trong vùng và liên vùng.
Xây dựng chính quyền số, đô thị thông minh, bảo đảm nguyên tắc lấy người dân là trung tâm, dữ liệu và hạ tầng thông minh là nền tảng; nghiên cứu, phát triển mô hình siêu đô thị theo hướng quy hoạch tích hợp, đa trung tâm, gắn kết chặt chẽ với hạ tầng vùng và các đô thị vệ tinh. Ưu tiên đầu tư hạ tầng chiến lược hiện đại, giao thông công cộng khối lượng lớn và các trung tâm tài chính, dịch vụ, đổi mới sáng tạo, kinh tế số, logistics và công nghệ cao; xây dựng các hệ thống dữ liệu dùng chung và chuyên ngành, bảo đảm tính kết nối, chia sẻ liên thông, an toàn, bảo mật.
Năm là, triển khai quyết liệt các giải pháp bảo vệ môi trường đô thị. Xây dựng Chương trình tổng thể xử lý ô nhiễm không khí, nguồn nước sinh hoạt và nước thải tại các đô thị lớn, nhất là Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Nâng cao trách nhiệm và năng lực của chính quyền đô thị trong ứng phó thiên tai và xử lý các tình huống khẩn cấp, khủng hoảng.
Tập trung phát triển Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị văn minh toàn cầu. Khẩn trương sơ kết đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 05/5/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Nghị quyết số 31-NQ/TW, ngày 30/12/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; đề xuất chủ trương, giải pháp phát triển Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh phù hợp với tình hình mới.
Rà soát, sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách đặc thù tạo điều kiện để các thành phố lớn như Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các địa phương lân cận huy động tối đa các nguồn lực công - tư triển khai đầu tư các dự án hạ tầng quy mô lớn, mang tính kết nối đồng bộ trong đô thị và trong các vùng kinh tế trọng điểm...
2. Kết luận số 226-KL/TW, ngày 11/12/2025 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc chấn chỉnh lề lối làm việc, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị
Kết luận nêu rõ: Thời gian qua, với quyết tâm chính trị, nỗ lực lớn của toàn Đảng, việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị đã đạt được nhiều kết quả quan trọng; tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị được sắp xếp theo hướng đồng bộ, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, gần dân, sát cơ sở, phục vụ người dân tốt hơn.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn một số vấn đề cần chấn chỉnh, khắc phục trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành công tác như tình trạng ban hành văn bản, hội họp nhiều, sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, tổ chức, cơ quan, địa phương chưa thật nhuần nhuyễn, chặt chẽ, việc thực hiện chế độ thông tin báo cáo chưa đồng bộ, thống nhất, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số còn hạn chế...
Vì vậy, để kịp thời chấn chỉnh, khắc phục những hạn chế trên, Ban Bí thư yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, địa phương, đơn vị tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt và tổ chức triển khai thực hiện tốt các nội dung sau:
Một là, về công tác ban hành văn bản:
- Tập trung đổi mới, nâng cao chất lượng công tác ban hành văn bản theo hướng đơn giản hóa và rút gọn, tích hợp các quy trình, thủ tục trong ban hành văn bản. Không ban hành văn bản thuộc thẩm quyền riêng thay cho văn bản thuộc thẩm quyền chung của tổ chức, cơ quan, địa phương, đơn vị. Không đưa nội dung về công tác cán bộ, chế độ, chính sách vào văn bản quy định về chuyên môn, nghiệp vụ; bảo đảm các văn bản được ban hành đúng thẩm quyền, đúng thể thức, kỹ thuật trình bày.
- Tăng cường rà soát, bảo đảm tính nhất quán trong nội dung của các văn bản đã ban hành; sửa đổi, bổ sung, thay thế các văn bản, quy định chồng chéo, không còn phù hợp; tích hợp một số quy định cần thiết có liên quan giữa các văn bản thành quy định chung; tích hợp các nội dung tương đồng liên ngành vào một văn bản liên tịch (bộ, ngành) để hướng dẫn, tổ chức thực hiện, tránh gây khó khăn cho cơ sở, doanh nghiệp và người dân.
- Chỉ ban hành văn bản khi thật cần thiết để quy định, hướng dẫn, tổ chức thực hiện, không ban hành văn bản mang tính sao chép lại nội dung văn bản của cấp trên. Nội dung văn bản phải ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, rõ mục tiêu; các giải pháp, chính sách đề ra phải bảo đảm tính khả thi, phù hợp với điều kiện thực tiễn và thống nhất, đồng bộ với các quy định của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước. Văn bản của cấp dưới phải cụ thể hóa văn bản chỉ đạo của cấp trên thành các nhiệm vụ, giải pháp của cấp mình, đơn vị mình, có quy định nguồn lực, thời gian hoàn thành và phân công rõ trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có liên quan. Hằng năm, các tổ chức, cơ quan, địa phương, đơn vị thực hiện tinh giản tối thiểu 15% số lượng văn bản hành chính so với năm trước.
Hai là, về công tác tổ chức các hội nghị:
Hằng năm, trên cơ sở chương trình công tác, các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, địa phương, đơn vị căn cứ tình hình thực tiễn xây dựng kế hoạch tổ chức các hội nghị; trong đó, số lượng hội nghị trực tiếp chiếm không quá 40% và số lượng hội nghị trực tuyến chiếm không ít hơn 60% tổng số hội nghị trong năm. Không tổ chức các hội nghị nếu không thật sự cần thiết hoặc nội dung đã có văn bản hướng dẫn chi tiết. Các cấp không tổ chức lại hội nghị đã tổ chức theo hình thức truyền hình trực tiếp, trực tuyến đến cơ sở. Thực hiện triệt để tiết kiệm, chống lãng phí trong tổ chức hội nghị, không để vượt định mức kinh phí phục vụ hội nghị; thực hiện tinh giản 10% số lượng hội nghị hằng năm.
- Các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể tăng cường điều phối việc tổ chức hội nghị của cấp mình, ngành mình, đơn vị mình, tránh trùng lặp, quá tải, tập trung vào thời điểm đầu năm hoặc cuối năm.
Một năm cấp tỉnh tổ chức không quá 2 hội nghị có quy mô toàn tỉnh (thành phần là tất cả lãnh đạo của hệ thống chính trị tỉnh, thành phố, không tính các hội nghị định kỳ của ban chấp hành đảng bộ, hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố), trường hợp đặc biệt cần tổ chức thêm hội nghị toàn tỉnh thì ban thường vụ tỉnh ủy, thành ủy xem xét, quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định của mình; cấp xã tổ chức không quá 3 hội nghị có quy mô toàn xã (thành phần là tất cả lãnh đạo của hệ thống chính trị cấp xã, không tính các hội nghị định kỳ của ban chấp hành đảng bộ, hội đồng nhân dân cấp xã), trường hợp đặc biệt cần tổ chức thêm hội nghị toàn xã thì ban thường vụ đảng ủy cấp xã xem xét, quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
- Khi tổ chức hội nghị cần xác định rõ quy mô và thành phần tham gia, số lượng đại biểu phù hợp, bảo đảm hiệu quả theo nguyên tắc hội nghị của khối nào (Đảng, chính quyền, cơ quan dân cử, đoàn thể) thì mời đại biểu của khối đó dự.
Hội nghị toàn quốc do Bộ Chính trị triệu tập có thành phần là các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, bí thư tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương; các hội nghị còn lại chỉ mời, triệu tập những thành phần thuộc phạm vi quản lý của cấp triệu tập hội nghị và có liên quan trực tiếp đến việc triển khai thực hiện nội dung hội nghị.
Hội nghị của các bộ, ngành, tỉnh, thành phố chủ trì tổ chức có tính chất nội bộ: Chỉ mời đại biểu của cấp mình, ngành mình, không mời đại biểu Trung ương và các ngành, địa phương khác (trừ trường hợp nội dung hội nghị có tính chất liên ngành, liên địa phương cần phải phối hợp giải quyết; việc tổ chức đại hội, lễ kỷ niệm ngày truyền thống thực hiện theo quy định riêng).
Các hội nghị chuyên môn: Mời, triệu tập cán bộ phụ trách chuyên môn dự, không mời các thành phần không liên quan trực tiếp đến lĩnh vực, nội dung chuyên môn của hội nghị. Cơ quan chủ trì tổ chức hội nghị có trách nhiệm phân công lãnh đạo chủ trì, không mời tất cả lãnh đạo của cơ quan cùng dự và chủ trì.
- Đổi mới và cải tiến phương thức họp theo hướng ngắn gọn, rõ nội dung; tập trung thảo luận, không trình bày lại nguyên văn tài liệu đã gửi. Các hội nghị quán triệt, phổ biến nghị quyết, chỉ thị, chủ trương lớn có thời gian họp không quá ½ ngày; các hội nghị chuyên môn, nghiệp vụ có thời gian họp không quá 1 ngày; các hội nghị quan trọng của bộ, ngành, địa phương cần thảo luận thì có thời gian họp không quá 1,5 ngày. Phát biểu tại hội nghị phải ngắn gọn, súc tích, đúng trọng tâm vấn đề cần trình bày, không kể thành tích, diễn biến tình hình. Phát biểu chỉ đạo khai mạc không quá 10 phút, phát biểu kết luận hội nghị của lãnh đạo có tổng thời lượng không quá 50 phút; phát biểu tham luận không quá 10 phút.
Ba là, về đổi mới phương thức làm việc, phối hợp công tác, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số:
- Cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, địa phương, đơn vị phải thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo rà soát, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức bộ máy hệ thống chính trị sau sắp xếp; xây dựng, hoàn thiện, chuẩn hóa và tăng cường quản lý danh mục trách nhiệm, quy chế, quy trình, thủ tục công tác, bảo đảm thống nhất giữa trách nhiệm và quyền hạn trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ; bãi bỏ các quy trình, thủ tục hành chính không còn phù hợp để đơn giản hóa, giảm gánh nặng cho cấp dưới.
Hoạt động của cơ sở phải được xây dựng và tổ chức thực hiện theo đúng các kế hoạch, chương trình công tác đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, bảo đảm khoa học, thiết thực, hiệu quả, tránh hình thức, lãng phí. Tăng cường đổi mới, cải tiến phương thức, phương pháp làm việc, đề cao trách nhiệm cá nhân, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phối hợp giữa các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị, khắc phục triệt để tình trạng chồng chéo, trùng lặp, đùn đầy, né tránh trong tố chức và hoạt động, gây khó khăn cho các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và người dân; lấy kết quả, sản phẩm và mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp làm thước đo đánh giá chất lượng, hiệu quả công tác.
- Những nội dung đã phân cấp, phân quyền cần phải được đánh giá và chuẩn hóa rõ ràng. Cấp dưới khi được phân cấp, phân quyền phải tự chịu trách nhiệm việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ. Thực hiện phân công nhiệm vụ theo nguyên tắc một việc chỉ phân công một đầu mối (cá nhân hoặc cơ quan, đơn vị) chủ trì giải quyết, xử lý theo phương châm rõ người, rõ việc, rõ thời gian, rõ trách nhiệm, rõ thẩm quyền, rõ sản phẩm. Cấp trên không được can thiệp trái quy định công việc của cấp dưới, cấp dưới phải chủ động giải quyết công việc thuộc thẩm quyền đã được phân cấp, không được đùn đẩy, né tránh, ỷ lại, xin ý kiến cấp trên những nội dung công việc theo quy định thuộc thẩm quyền và không phải là những khó khăn, vướng mắc vượt thẩm quyền.
- Các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, địa phương, đơn vị phải lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng quy định thực hiện chuyển đổi số trong công tác. Quan tâm đầu tư, nâng cấp, hoàn thiện hạ tầng công nghệ thông tin, hạ tầng số, nền tảng số, dữ liệu số, bảo đảm kết nối thông suốt, an toàn thông tin, đồng bộ hóa hệ thống dữ liệu từ Trung ương đến cơ sở, tạo thuận lợi trong khai thác dữ liệu dùng chung, kiểm soát tự động tránh trùng lặp nội dung; đẩy mạnh các dịch vụ công trực tuyến phục vụ người dân và doanh nghiệp. Thực hiện việc xử lý thủ tục hành chính trên môi trường số và số hóa văn bản đạt từ 95% trở lên. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn kỹ năng số, kỹ năng lãnh đạo, điều hành cho cán bộ, công chức ứng dụng số, trí tuệ nhân tạo (AI) trong hoạt động chuyên môn. Khẩn trương chuẩn hóa việc ứng dụng công nghệ thông tin, thống nhất các chỉ tiêu, biểu mẫu, hệ thống số liệu thông tin báo cáo, bảo đảm nội dung báo cáo ngắn gọn, rõ thời gian, rõ người chịu trách nhiệm, định lượng được kết quả và giảm được số lượng báo cáo; thực hiện 100% văn bản ban hành và báo cáo định kỳ, thông tin truyền tải giữa các cấp qua môi trường mạng.
- Người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, địa phương, đơn vị có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, công tác dân vận, tạo sự đồng thuận, thống nhất cao trong xã hội về tổ chức triển khai thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước thuộc phạm vi lãnh đạo, quản lý của mình. Tăng cường chỉ đạo, kiểm tra, giám sát và hướng dẫn tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc ngay tại cơ sở, không để kéo dài; đề cao tính tự quyết, tự chịu trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, địa phương, đơn vị. Hằng năm, thực hiện việc đánh giá, xếp loại cán bộ đối với người đứng đầu thông qua kết quả lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Kết luận này tại tổ chức, cơ quan, địa phương, đơn vị được phân công phụ trách.
Theo đó, Ban Bí thư giao các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo cụ thể hóa, thực hiện toàn diện, triệt để các nội dung về chấn chỉnh lề lối làm việc, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị trong các tổ chức, cơ quan, địa phương, đơn vị trực thuộc.
Hằng năm, định kỳ 6 tháng, quý, các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương báo cáo Ban Bí thư về việc thực hiện Kết luận này, tập trung vào kết quả giảm số lượng văn bản ban hành, số lượng các hội nghị, cuộc họp; việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số của tổ chức, cơ quan, địa phương, đơn vị.
Đồng thời giao Văn phòng Trung ương Đảng chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan theo dõi, đôn đốc việc triển khai thực hiện Kết luận này, định kỳ báo cáo Ban Bí thư những khó khăn, vướng mắc để chỉ đạo, giải quyết.
3. Nghị định số 292/2025/NĐ-CP, ngày 06/11/2025 của Chính phủ, quy định về đối tượng được miễn thuế, hạng đất tính thuế, thời hạn miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp
Nghị định gồm 05 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2026.
- Đối tượng được miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp thực hiện theo quy định tại Điều 1, Nghị quyết số 55/2010/QH12 ngày 24/11/2010 của Quốc hội về miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 28/2016/QH14 ngày 11/11/2016 của Quốc hội), cụ thể:
(1) Miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp đối với toàn bộ diện tích đất nông nghiệp phục vụ nghiên cứu, sản xuất thử nghiệm; diện tích đất trồng cây hàng năm theo quy định của pháp luật về đất đai; diện tích đất làm muối;
(2) Miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp đối với toàn bộ diện tích đất nông nghiệp được Nhà nước giao hoặc công nhận quyền sử dụng đất cho hộ nghèo. Việc xác định hộ nghèo được căn cứ vào chuẩn hộ nghèo ban hành theo Nghị định của Chính phủ. Trường hợp ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có quy định cụ thể chuẩn hộ nghèo theo quy định của pháp luật áp dụng tại địa phương thì căn cứ chuẩn hộ nghèo do ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định để xác định hộ nghèo.
(3) Miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp đối với toàn bộ diện tích đất nông nghiệp cho các đối tượng: Hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao, công nhận quyền sử dụng đất để sản xuất nông nghiệp, nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp (bao gồm cả nhận thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất nông nghiệp); hộ gia đình, cá nhân là thành viên hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã sản xuất nông nghiệp; hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư đã nhận đất giao khoán ổn định của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, nông trường quốc doanh, lâm trường quốc doanh và hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư nhận đất giao khoán ổn định của công ty nông, lâm nghiệp để sản xuất nông nghiệp theo quy định của pháp luật; Hộ gia đình, cá nhân sản xuất nông nghiệp góp quyền sử dụng đất nông nghiệp của mình để thành lập hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã sản xuất nông nghiệp theo quy định của Luật Hợp tác xã.
(4) Miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp đối với diện tích đất nông nghiệp được Nhà nước giao cho tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, đơn vị sự nghiệp và các đơn vị khác đang trực tiếp sử dụng đất để sản xuất nông nghiệp.
Đối với diện tích đất nông nghiệp mà Nhà nước giao cho tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, đơn vị sự nghiệp và các đơn vị khác đang quản lý nhưng không trực tiếp sử dụng đất để sản xuất nông nghiệp mà giao cho tổ chức, cá nhân khác nhận thầu theo hợp đồng để sản xuất nông nghiệp thì thực hiện thu hồi đất theo quy định của Luật Đất đai; trong thời gian Nhà nước chưa thu hồi đất thì phải nộp 100% thuế sử dụng đất nông nghiệp.
(5) Thủ tục, hồ sơ kê khai, miễn thuế tại Điều này thực hiện theo quy định của pháp luật về quản lý thuế.
- Hạng đất tính thuế sử dụng đất nông nghiệp trên cơ sở hạng đất được xác định theo quy định tại Quyết định số 326/TTg ngày 18/5/1996 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê chuẩn hạng đất tính thuế sử dụng đất nông nghiệp và Quyết định phê duyệt điều chỉnh hạng đất tính thuế sử dụng đất nông nghiệp của Thủ tướng Chính phủ (nếu có).
- Thời hạn miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp quy định tại Nghị định này được thực hiện từ ngày 01/01/2026 đến hết ngày 31/12/2030.
4. Kế hoạch số 12-KH/TU, ngày 03/12/2025 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc tuyên truyền, triển khai thực hiện Nghị quyết số 72-NQ/TW, ngày 09/9/2025 của Bộ Chính trị về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân
Trong đó, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đề ra hình thức tuyên truyền, quán triệt và thông điệp tuyên truyền, như sau:
- Về hình thức tuyên truyền, quán triệt:
+ Tổ chức quán triệt đến các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị và cán bộ, đảng viên trong toàn hệ thống chính trị từ tỉnh đến xã, phường, đặc khu.
+ Tuyên truyền sâu rộng trên Báo và Phát thanh, Truyền hình An Giang; Cổng/trang thông tin điện tử và trên nền tảng số, mạng xã hội.
+ Tổ chức hội nghị, tọa đàm, diễn đàn đối thoại chính sách, tương tác hai chiều đồng hành cùng nguời dân và cán bộ y tế, người làm chính sách.
+ Tuyên truyền qua bản tin thông báo nội bộ, các tài liệu ấn phẩm, sách, tờ gấp với nội dung dễ hiểu, hướng đến nhiều đối tượng.
+ Tuyên truyền qua hệ thống phát thanh, sinh hoạt các tổ hội; hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên cơ sở; thông qua hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao...
+ Hưởng ứng phong trào “Ngày Sức khỏe toàn dân” vào ngày 7/4 hằng năm.
+ Tuyên truyền, cổ động trực quan, xây dựng các khẩu hiệu, panô, áp phích đảm bảo ấn tượng, hấp dẫn, thuyết phục, thu hút Nhân dân tại các khu hành chính, trung tâm văn hóa, khu dân sinh, các trục đường chính.
- Về thông điệp tuyên truyền:
+ Một nước Việt Nam khỏe mạnh được bắt đầu từ mỗi gia đình, mỗi người dân khỏe mạnh!
+ Y tế dự phòng là then chốt - Y tế cơ sở là nền tảng - Nhân dân là trung tâm!
+ Mỗi người dân khỏe mạnh - Cả nước vững mạnh!
+ Sức khỏe là vốn quý - Mỗi người hãy biết giữ gìn!
+ Sức khỏe là tài sản quý giá nhất - Hãy chủ động bảo vệ sức khỏe ngay từ hôm nay!
+ Khỏe để học - Khỏe để làm việc - Khỏe để hạnh phúc - Khỏe để bảo vệ Tổ quốc!
+ Sống xanh - sống lành- sống khỏe!
+ Ăn sạch, sống xanh - Cho tương lai Việt Nam khỏe mạnh!
+ Tập thể dục mỗi ngày - Khỏe thân, bền trí!
+ Nâng cao chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của người bệnh!
+ Đầu tư cho y tế là đầu tư cho phát triển bền vững!
+ Bảo vệ và chăm sóc sức khỏe vì một Việt Nam khỏe mạnh, vì hạnh phúc của Nhân dân!
Ban Thường vụ Tỉnh ủy chỉ đạo các cơ quan, đơn vị thực hiện tốt các nhiệm vụ như sau:
- Đối với Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy:
+ Chủ trì hướng dẫn tổ chức quán triệt đến từng chi bộ; làm tốt công tác tư tưởng, dự báo tình hình, có giải pháp phù hợp, kip thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc để công tác thông tin, tuyên truyền đạt hiệu quả cao nhất; cổ vũ cán bộ, đảng viên, đặc biệt cán bộ tuyên giáo và dân vận, đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên các cấp tích cực tuyên truyền, thông tin lan tỏa những nội dung quan trọng của Nghị quyết số 72-NQ/TW và Chương trình hành động số 05-CTr/TU của Tỉnh ủy, tạo sự đồng thuận, thống nhất thực hiện trong các tầng lớp nhân dân.
+ Lãnh đạo, định hướng các cơ quan thông tin đại chúng mở chuyên trang, chuyên mục tuyên truyền, phổ biến sâu rộng Nghị quyết và các văn bản cụ thể hóa của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh; nhằm tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và Nhân dân. Báo và Phát thanh, Truyền hình An Giang đẩy mạnh tuyên truyền mở chuyên trang, chuyên mục, diễn đàn trao đổi, thảo thuận; triển khai hệ thống tin, bài với hình thức, nội dung đa dạng, phong phú; phát huy các nền tảng truyền thông, ứng dụng công nghệ số để lan tỏa sâu rộng Nghị quyết.
+ Thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc triển khai thực hiện; tham mưu Ban Thường vụ Tỉnh ủy báo cáo kết quả thực hiện về Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương.
- Đối với các đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị, địa phương: Tổ chức quán triệt, phổ biến, tuyên truyền, giáo dục và triển khai thực hiện Nghị quyết số 72-NQ/TW của Bộ Chính trị, Chuơng trình hành động số 05-CTr/TU của Tỉnh ủy và Kế hoạch này gắn với chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, địa phương, phù hợp với tình hình thực tiễn. Thường xuyên kiểm tra, giám sát việc triển khai thực hiện.
- Đối với Đảng ủy Ủy ban nhân dân tỉnh: Lãnh đạo Ủy ban nhân dân tỉnh quán triệt, triển khai thực hiện Kế hoạch này; chỉ đạo các sở, ban, ngành, địa phương triển khai, lồng ghép triển khai thực hiện phù hợp, hiệu quả:
+ Đẩy mạnh công tác tuyên truyền triển khai thực hiện Chương trình hành động số 05-CTr/TU của Tỉnh ủy. Tuyên truyền, phổ biến chế độ, chính sách tài chính y tế, nhất là quyền lợi, nghĩa vụ của người tham gia bảo hiểm y tế, giúp Nhân dân hiểu đúng, đủ, tích cực tham gia và thụ hưởng, góp phần mở rộng độ bao phủ bảo hiểm y tế toàn dân, bảo đảm an sinh xã hội.
+ Tổ chức tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ y tế vừa đảm nhận tốt chuyên môn vừa là cán bộ tuyên truyền, lan tỏa kiến thức về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe cho Nhân dân. Chỉ đạo các cơ sở trong toàn hệ thống y tế quan tâm thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao ý thức học tập, rèn luyện, trau dồi y đức, quy tắc ứng xử, kỹ năng giao tiếp với người bệnh và cung cấp các thông tin công khai, minh bạch, chính xác, kịp thời về những vấn đề thuộc phạm vi quản lý.
+ Tổ chức các hoạt động hưởng ứng “Ngày sức khỏe toàn dân” vào ngày 7/4 hằng năm phù hợp, hiệu quả.
+ Chú trọng đưa nội dung giáo dục sức khỏe và dinh dưỡng vào chương trình giảng dạy ở các cấp học phù hợp; tăng cường giáo dục thể chất, chương trình tư vấn dinh dưỡng, rèn luyện nâng cao sức khỏe vào chương trình dạy học và các hoạt động ngoại khóa trong nhà trường.
+ Tổ chức truyền thông về quy chuẩn, nhãn mác, quyền lợi người tiêu dùng; về quy trình sản xuất sạch, nông nghiệp hữu cơ, an toàn sinh học, nâng cao nhận thức cộng đồng về bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm từ gốc. Kiểm tra, xử lý nghiêm các hành vi gian lận thương mại, quảng cáo sai sự thật, góp phần tạo môi trường kinh doanh minh bạch, lành mạnh.
+ Chỉ đạo các cơ quan báo chí trên dịa bàn tỉnh, hệ thống truyền thông cơ sở tăng cường tuyên truyền, phổ biến sâu rộng Nghị quyết 72-NQ/TW của Bộ Chính trị và Chương trình hành động số 05-CTr/TU của Tỉnh ủy. Định hướng, nắm bắt dư luận xã hội, kịp thời phát hiện, đấu tranh, xử lý kịp thời các thông tin xấu độc, quảng cáo sai sự thật ảnh hưởng đến sức khỏe người dân.
- Đối với các cơ quan chuyên trách tham mưu giúp việc của Tỉnh ủy, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh, các tổ chức chính trị - xã hội tỉnh: Theo chức năng, nhiệm vụ tích cực tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn các tầng lớp nhân dân tham gia thực hiện; vận động đoàn viên, hội viên thực hành dinh dưỡng hợp lý, luyện tập thể dục thể thao, giữ gìn vệ sinh, khám sức khỏe định kỳ, thực hiện nếp sống điều độ, tránh lạm dụng chất kích thích...
5. Kế hoạch số 13-KH/TU, ngày 03/12/2025 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy thực hiện Kết luận số 149-KL/TW, ngày 10/4/2025 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW của Hội Nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới
Trong đó, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đề ra một số nhiệm vụ, giải pháp, như sau:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp đối với công tác dân số:
- Tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo cụ thể hóa, quán triệt, triển khai các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp của Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII), Kết luận số 149-KL/TW, ngày 10/4/2025 của Bộ Chính trị và Kế hoạch này của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về công tác dân số trong tình hình mới; nhất là quan điểm chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước giàu mạnh và thịnh vượng trong kỷ nguyên mới.
- Nâng cao nhận thức, tăng cường trách nhiệm, đổi mới phương thức lãnh đạo; đổi mới tư duy trong chỉ đạo và thực hiện; xem dân số là yếu tố quan trọng hàng đầu, công tác dân số là nhiệm vụ chiến lược, vừa cấp thiết, vừa lâu dài của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và hệ thống chính trị. Chú trọng đưa nội dung công tác dân số vào nghị quyết, chương trình, kế hoạch công tác; thực hiện lồng ghép có hiệu quả các yếu tố dân số vào chiến lược, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Phát huy hiệu quả vai trò lãnh đạo, chỉ đạo và phối hợp liên ngành trong công tác dân số.
- Tăng cường phối hợp và nâng cao trách nhiệm liên ngành, phát huy mạnh mẽ vai trò của hệ thống chính trị và của cả cộng đồng trong công tác dân số. Phân công trách nhiệm cụ thể, rõ ràng đối với từng ngành, từng cơ quan, đoàn thể trong thực hiện các mục tiêu, giải pháp, đặc biệt là trong việc thực hiện các phong trào thi đua, các cuộc vận động về công tác dân số… làm cơ sở để xem xét công nhận đơn vị, cơ quan đạt chuẩn văn hóa, thực hiện nếp sống văn minh, xây dựng môi trường sống lành mạnh, nâng cao sức khỏe và đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân.
Hai là, đổi mới nội dung tuyên truyền, vận động về công tác dân số:
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân về chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và kiến thức về dân số đến từng người dân nhằm nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi về dân số và phát triển. Chú trọng nâng cao kiến thức, kỹ năng tuyên truyền cho đội ngũ cán bộ chuyên trách, cộng tác viên dân số. Tranh thủ sự ủng hộ, tham gia tuyên truyền, vận động từ các chức sắc tôn giáo, người có uy tín trong cộng đồng để nâng cao hiệu quả công tác truyền thông.
- Nâng cao nhận thức, thực hành về bình đẳng giới; thực hiện tốt cuộc vận động mỗi cặp vợ chồng sinh đủ hai con; đổi mới, nâng cao hiệu quả nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục dân số, sức
khỏe sinh sản vị thành niên, thanh niên trong và ngoài nhà trường; hình thành kiến thức, kỹ năng về dân số, sức khỏe sinh sản, hôn nhân, gia đình, bình đẳng giới cho thế hệ trẻ. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, thực hiện phong trào mọi người dân thường xuyên luyện tập thể dục, thể thao, có lối sống lành mạnh, chế độ dinh dưỡng hợp lý để nâng cao thể lực, trí lực, tầm vóc và tuổi thọ khỏe mạnh của Nhân dân.
Ba là, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về dân số:
- Thể chế hóa kịp thời và triển khai thực hiện hiệu quả các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác dân số. Thường xuyên rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện đồng bộ các quy định, cơ chế, chính sách của địa phương về công tác dân số phù hợp với quan điểm dân số và phát triển, đáp ứng yêu cầu phát triển trong tình hình mới. Có chính sách khuyến khích các cặp vợ chồng và cá nhân sinh đủ hai con, phấn đấu sớm đưa về mức cân bằng dân số tự nhiên; chính sách chăm sóc sức khỏe người cao tuổi để tăng tuổi thọ bình quân, tăng số năm sống khỏe mạnh, bảo đảm thích ứng với già hóa dân số và nâng cao chất lượng dân số; các chính sách hỗ trợ cho phụ nữ sinh đủ hai con trước trước 35 tuổi, chính sách việc làm, trợ cấp, hỗ trợ cho người lao động sinh con và nuôi con nhỏ.
- Thực hiện tốt chính sách, pháp luật về dân số gắn với xây dựng gia đình hạnh phúc; đồng thời đề cao tính gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong việc thực hiện chính sách dân số, xây dựng gia đình văn hóa, hạnh phúc. Nâng cao hiệu lực pháp lý trong quản lý và tổ chức thực hiện chính sách dân số, bảo đảm đầy đủ quyền và nghĩa vụ người dân, triển khai toàn diện nội dung của công tác dân số. Rà soát, điều chỉnh, bổ sung một số chế độ, chính sách cho người làm công tác dân số. Củng cố, kiện toàn, nâng cao năng lực tổ chức bộ máy làm công tác dân số, bảo đảm thống nhất, hiệu quả, phù hợp mô hình chính quyền hai cấp.
- Thực hiện tốt chính sách, pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và phát huy vai trò người cao tuổi; khuyến khích người cao tuổi tham gia các hoạt động kinh tế - xã hội; xác định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của người sử dụng lao động và người lao động cao tuổi; chủ động xây dựng môi trường thân thiện với người cao tuổi.
Bốn là, triển khai đồng bộ các giải pháp về công tác dân số:
- Triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026-2035.
- Đẩy mạnh phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của mạng lưới cung cấp dịch vụ dân sốtoàn diện về quy mô, cơ cấu, chất lượng và phân bố dân cư. Tiếp tục củng cố mạng lưới dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản; mạng lưới chăm sóc người cao tuổi; cơ sở cung cấp các loại hình dịch vụ rèn luyện sức khỏe, giải trí của người cao tuổi; từng bước phát triển mạng lưới chuyên ngành lão khoa.Triển khai có hiệu quả công tác phòng bệnh, nâng cao sức khỏe bà mẹ, trẻ em và người dân.
- Bảo đảm đủ nguồn lực đáp ứng yêu cầu triển khai toàn diện công tác dân số. Bố trí ngân sách địa phương đảm bảo cho công tác dân số, công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức
khỏe, giáo dục, đào tạo, văn hóa, thể thao... nhằm nâng cao chất lượng dân số toàn diện cả về thể lực, trí lực, đời sống mọi mặt của nhân dân, nhất là đối tượng chính sách, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo. Đẩy mạnh xã hội hóa các dịch vụ dân số; huy động xã hội hóa, có chính sách khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài tỉnh đầu tư xây dựng các cơ sở sản xuất, phân phối, cung ứng các phương tiện, dịch vụ trong lĩnh vực dân số.
- Củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ dân số phù hợp mô hình chính quyền hai cấp. Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực, thực hiện chuẩn hóa đội ngũ cán bộ làm công tác dân số, đáp ứng yêu cầu chuyển hướng sang dân số và phát triển. Mở rộng, nâng cao hiệu quả giáo dục, đào tạo, dạy nghề gắn với thị trường lao động; các chương trình tạo việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng thời gian sử dụng lao động ở các khu vực trong tỉnh. Phát huy vai trò mạng lưới y tế tư nhân góp phần tạo điều kiện thuận lợi để người dân dễ dàng tiếp cận các dịch vụ dân số.
- Tăng cường ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số toàn diện trong công tác dân số và phát triển. Hoàn thành việc xây dựng, kết nối liên thông, thống nhất đồng bộ dữ liệu về con người (trên cơ sở dữ liệu gốc là cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư) để đánh giá chính xác biến động về dân số (số lượng, chất lượng), phục vụ chính xác, kịp thời, hiệu quả công tác hoạch định chính sách dân số và phát triển. Mở rộng hợp tác, tranh thủ sự hỗ trợ về tài chính, kiến thức, kinh nghiệm, kỹ thuật... để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững về dân số.
6. Kế hoạch số 15-KH/TU, ngày 05/12/2025 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về thực hiện Chỉ thị số 53-CT/TW, ngày 26/10/2025 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc thực hiện trách nhiệm giải trình của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động công vụ
Kế hoạch đề ra một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:
Một là, tổ chức học tập, quán triệt nghiêm túc, sâu rộng nội dung Chỉ thị số 53-CT/TW và các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về trách nhiệm giải trình đến toàn thể cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm và xây dựng văn hóa giải trình trong hoạt động công vụ trong toàn Đảng bộ và quần chúng nhân dân; tạo sự thống nhất về quyền yêu cầu giải trình và nghĩa vụ giải trình theo quy định. Xác định công tác lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện trách nhiệm giải trình là một trong những nội dung quan trọng trong tổ chức, thực hiện chức năng, nhiệm vụ quyền hạn được giao của cơ quan, tổ chức, đơn vị và việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao của cá nhân; tăng cường hoạt động giải trình, làm rõ trách nhiệm và tính công khai minh bạch trong hoạt động công vụ...
Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, địa phương, cơ quan, đơn vị phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện nghiêm các quy định về trách nhiệm giải trình; xem đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng, thường xuyên, là thước đo bản lĩnh, đạo đức, năng lực và tinh thần dám chịu trách nhiệm của cán bộ, đảng viên. Gắn trách nhiệm giải trình với trách nhiệm nêu gương, với tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng, trở thành việc làm thường xuyên, từng bước hình thành văn hóa giải trình trong cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Xây dựng, triển khai, thực hiện nghiêm túc các quy định về trách nhiệm giải trình và đưa vào tiêu chí để đánh giá cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên hằng năm (theo hướng dẫn của Trung ương, của tỉnh); kiên quyết đấu tranh, loại bỏ các biểu hiện né tránh, đùn đẩy, giải trình không đầy đủ, hình thức, không trung thực trong hoạt động công vụ.
Hai là, các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị, địa phương tích cực góp ý kiến, tham gia xây dựng hoàn thiện thể chế, quy định về trách nhiệm giải trình bảo đảm đồng bộ, thống nhất với quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Chủ động rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy chế, quy trình, quy định về trách nhiệm giải trình, bảo đảm tính khả thi, rõ ràng, khắc phục các khó khăn, vướng mắc. Xây dựng bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả thực hiện trách nhiệm giải trình cụ thể cho từng ngành, lĩnh vực theo chức năng, thẩm quyền, gắn với mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp. Thực hiện nghiêm các quy định về kiểm tra, giám sát, thanh tra, bảo đảm xử lý nghiêm minh các vi phạm về trách nhiệm giải trình.
Ba là, nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện trách nhiệm giải trình, gắn với kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trên các lĩnh vực, bảo đảm tiêu chí phục vụ Nhân dân là trọng tâm. Trong đó tập trung vào các lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, lãng phí, tiêu cực như: Công tác cán bộ; đất đai, môi trường; quy hoạch, xây dựng; quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công... Tăng cường đối thoại, giải quyết kịp thời các vấn đề bức xúc của người dân, doanh nghiệp. Người đứng đầu phải chủ động, tăng cường trao đổi, đối thoại trực tiếp với người dân, doanh nghiệp. Tiếp nhận và giải thích, làm rõ kịp thời các kiến nghị, phản ánh, giải quyết dứt điểm các vấn đề ngay từ cơ sở, không để phát sinh khiếu nại, tố cáo kéo dài, vượt cấp. Yêu cầu các cơ quan, đơn vị, người đứng đầu khi giải trình phải trung thực, kịp thời, cụ thể, làm rõ trách nhiệm, không né tránh.
Bốn là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra việc chấp hành các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về thực hiện trách nhiệm giải trình của cơ quan, đơn vị trong hoạt động công vụ. Đưa nội dung kiểm tra, giám sát việc thực hiện trách nhiệm giải trình vào chương trình kiểm tra, giám sát hằng năm của cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp. Việc kiểm tra, giám sát phải được thực hiện thường xuyên, thực chất, tránh hình thức, tập trung vào các lĩnh vực, địa bàn nhạy cảm, có nhiều bức xúc, dư luận xã hội quan tâm. Kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các vi phạm, nhất là các hành vi né tránh, chậm giải trình, giải trình không trung thực.
Năm là, nâng cao vai trò giám sát của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, báo chí và Nhân dân. Đảng ủy Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân tỉnh lãnh đạo Hội đồng nhân dân tỉnh đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động chất vấn, trả lời chất vấn, giải trình tại các kỳ họp hội đồng nhân dân các cấp. Khắc phục tình trạng đại biểu còn nể nang, ngại va chạm, ít chất vấn, bố trí thời gian chất vấn không nhiều, mang tính hình thức. Đảng ủy Cơ quan Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội các cấp tăng cường vai trò giám sát, phản biện xã hội. Ủy ban nhân dân tỉnh và các sở, ban, ngành, cơ quan, đơn vị có liên quan phải trả lời, phàn hồi kịp thời các kiến nghị sau giám sát của Mặt trận Tổ quốc. Hoàn thiện cơ chế, tạo điều kiện thuận lợi để Nhân dân giám sát, kiến nghị, phản ánh các biểu hiện, hành vi vi phạm trong thực hiện trách nhiệm giải trình.
Sáu là, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, sử dụng hiệu quả cổng thông tin điện tử, các nền tảng số để tiếp nhận, phản hồi yêu cầu giải trình của người dân, doanh nghiệp. Đảng ủy Ủy ban nhân dân tỉnh lãnh đạo Ủy ban nhân dân tỉnh nâng cấp, vận hành hiệu quả Cổng thông tin điện tử của tỉnh để phục vụ giải trình, tiếp nhận và phản hồi yêu cầu của người dân, doanh nghiệp. Chủ động, kịp thời thông tin, giải trình về các chủ trương, chính sách mới, các vấn đề phức tạp, nhạy cảm mà dư luận quan tâm. Chuẩn bị các điều kiện kỹ thuật để sẵn sàng kết nối, liên thông với cơ sở dữ liệu quốc gia về trách nhiệm giải trình khi Trung ương triển khai...
Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy An Giang