Năm 1938, đồng chí Đồng Sỹ Nguyên tham gia hoạt động trong các tổ chức hội quần chúng cứu quốc ở trường học, ở xã và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 12/1939. Suốt quá trình hoạt động cách mạng, đồng chí được giao nhiều trọng trách quan trọng. Đặc biệt, trên cương vị Tư lệnh Bộ Tư lệnh Trường Sơn, đồng chí đã có những quyết định sáng tạo trong chỉ đạo, tổ chức lực lượng, xây dựng, phát triển và khai thác hiệu quả đường Trường Sơn huyền thoại.
Chặng đường 16 năm xây dựng, chiến đấu của Bộ đội Trường Sơn, thì trung tướng Đồng SỹNguyên có gần 10 năm là Tư lệnh. Trong giai đoạn này, Bộ đội Trường Sơn phải đối mặt với sự đánh phá ác liệt nhất của máy bay và bom đạn Mỹ; phải đối mặt với những thủ đoạn tinh vi, tàn bạo nhất, với các loại vũ khí tối tân, hiện đại nhất của Mỹ, ngụy; đồng thời cũng là quãng thời gian mà Trường Sơn nhận nhiệm vụ chi viện cho chiến trường với quy mô to lớn nhất. Đồng chí cùng với Bộ Tham mưu của mình chỉ huy một lực lượng hùng hậu với quy mô 9 sư đoàn và 21 trung đoàn trực thuộc, vượt lên tất cả, để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chi viện cho các chiến trường trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của 3 nước Đông Dương.
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, Bác Hồ, đồng chí Đồng Sỹ Nguyên cùng Bộ Tư lệnh chỉ đạo tạo mạng lưới đường - cầu nhiều trục dọc Bắc - Nam; Đông - Tây Trường Sơn xuyên cả ba nước Đông Dương; nhiều trục ngang nối hai sườn Đông - Tây, nối tất cả các chiến trường, tạo nên một hệ thống giao thông liên hoàn, đồng bộ, đa dạng và kỳ hình.
Đồng chí chủ động xây dựng hệ thống thông tin thông suốt tới tất cả các chiến trường. Khi thiết kế phương thức “tác chiến hợp đồng binh chủng” trong chi viện chiến lược của tuyến 559, đồng chí chỉ thị nhanh chóng xây dựng hệ thống thông tin tải ba, thông tin vô tuyến sóng ngắn và hệ thống dây thông tin dây bọc đến tất cả các đơn vị trên toàn tuyến. Đầu năm 1971, hệ thống thông tin tải ba đã được Bộ đội Trường Sơn nối thông suốt tới tất cả các chiến trường của 3 nước Đông Dương, bảo đảm sự chỉ huy từ tổng hành dinh tới tận chiến trường Nam Bộ. Hệ thống điện thoại được trang bị cho tất cả cấp đại đội và tương đương, tới các trọng điểm, các trạm phẫu thuật… của toàn chiến trường Trường Sơn.
Đầu năm 1969, đồng chí đưa ra kế hoạch xây dựng tuyến đường ống xăng dầu xuyên suốt Trường Sơn từ cửa khẩu vào tới chiến trường Nam Bộ với chiều dài khoảng 1.400km. Đề xuất này được Đảng ủy - Bộ Tư lệnh thống nhất kiến nghị và được Quân ủy Trung ương phê chuẩn. Hình thành một hệ thống đường ống xăng dầu hoàn chỉnh, liên hoàn cả Đông và Tây Trường Sơn; đồng bộ với đó là hệ thống kho tàng phục vụ cấp phát suốt dọc tuyến với gần 50 kho lớn, nhỏ có trữ lượng 27.000m3, 114 trạm bơm đẩy có sức bơm 600-800m3/ngày đêm trên một hướng. Việc xây dựng tuyến đường ống xăng dầu Trường Sơn đã giải quyết cơ bản việc cung ứng xăng dầu cho tất cả các lực lượng vận tải của Bộ đội Trường Sơn, lực lượng vận tải của 2 nước bạn Lào và Campuchia; các lực lượng hành quân của Bộ trên đường Trường Sơn; đặc biệt trong chiến dịch Giải phóng Tây Nguyên, Chiến dịch Hồ Chí Minh. Từ đây, lực lượng vận tải của Trường Sơn chấm dứt một lực lượng lớn vận tải xăng dầu bằng xe téc, xe chở phi xăng và để dồn trọng tải cho chở hàng chi viện… Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên đánh giá:“Đường ống xăng dầu Trường Sơn là huyền thoại trong huyền thoại Trường Sơn”.
Trước tình hình Quân đội Mỹ và đồng minh tìm mọi cách cắt đứt con đường vận tải chiến lược này. Bằng sự mưu trí, sáng tạo, bản lĩnh và ý chí quyết tâm, đồng chí cùng Bộ đội Trường Sơn thực hiện thành công công cuộc chi viện cho chiến trường miền Nam, làm thất bại mọi âm mưu chiến lược của kẻ thù, lập nên những chiến công vang dội, để lại những dấu son chói lọi trong lịch sử chiến tranh Việt Nam. Chính trên những cung đường huyền thoại đó, hàng chục vạn bộ đội, thanh niên xung phong cùng phương tiện ô tô, xe cơ giới, máy móc, pháo cao xạ ngày đêm đương đầu với địch trong mưa bom bão đạn, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Đồng chí góp phần quan trọng vào thành tích, chiến công, vị trí và tầm vóc vĩ đại của Bộ đội Trường Sơn. 16 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành, Bộ đội Trường Sơn phải đối mặt với 733.000 trận oanh kích bằng đủ loại máy bay của Mỹ; chúng trút xuống Trường Sơn 4 triệu tấn bom đạn và hàng chục vạn lít chất độc hóa học da cam - dioxin. Song, Bộ đội Trường Sơn đã mở hệ thốngđường giao thông với 5 trục dọc và 21 trục ngang dài hơn 17.000km cho xe cơ giới; vận chuyển gần 2 triệu tấn vũ khí, đạn dược, lương thực chi viện cho các chiến trường. Từ năm 1973 đến 1975 đã chở bằng cơ giới 40 vạn quân và tổ chức hành quân cho 25 đoàn binh khí kỹ thuật vào chiến trường, cơ động bằng xe cơ giới 10 lượt sư đoàn của 3 Quân đoàn chủ lực tham gia chiến dịch; tiêu diệt và bắtsống 17.740 tên địch, giải phóng một vùng rộng lớn ở Nam Lào; bắn rơi tại chỗ 2.454 máy bay cácloại; mở 3.000 km đường giao liên, tổ chức cho hơn 2 triệu lượt người vào ra chiến trường an toàn; chuyển hàng vạn thương binh từ chiến trường ra hậu phương nuôi dưỡng và đưa hàng ngàn thiếu nhi vượt Trường Sơn ra Bắc học tập; xây dựng 1.350 km đường thông tin tải ba và hàng vạn ki-lô-mét dây thông tin các loại, bảo đảm thông tin thông suốt đến các hướng chiến trường; mở 1.400 km đường ốngxăng dầu, 600km đường sông; huy động 6 sư đoàn tham gia góp phần vào thắng lợi vẻ vang của Chiếndịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đồng chí luôn ấp ủy biến đường Trường Sơn trong kháng chiến thành con đường chiến lược xứng tầm trong thời bình. Bởi, hơn ai hết đồng chí hiểu ý nghĩa, tiềm lực to lớn của tuyến đường này. Dù đã nghỉ hưu, tuổi cao, sức yếu, nhưng khi đường Trường Sơn được Chính phủ phê duyệt, đồng chí vẫn sẵn sàng nhận nhiệm vụ làm đặc phái viên của Chính phủ, đôn đốc thực hiện việc mở đường. Đồng chí là người đầu tiên đề xuất đổi tên công trình Xa lộ Bắc - Nam thành đường Hồ Chí Minh. Năm 1999, Thủ tướng Chính phủ đồng ý với đề xuất củađồng chí và một số cán bộ lão thành cách mạng. Kể từ đó, công trình Xa lộ Bắc - Nam chính thức lấy tên gọi mới là đường Hồ Chí Minh.
Thái Văn Khởi