Trong nhiệm kỳ qua, với quyết tâm chính trị cao, sự chung sức, đồng lòng của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân, tỉnh An Giang đã kịp thời khắc phục khó khăn sau đại dịch Covid-19, kinh tế - xã hội phục hồi rõ nét, đạt kết quả nổi bật, tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân 05 năm giai đoạn 2021-2025 đạt 5,68%(1); quy mô nền kinh tế tiếp tục mở rộng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng(2), đời sống nhân dân được nâng cao, an sinh xã hội bảo đảm, nguồn thu ngân sách tăng, tạo điều kiện cho đầu tư phát triển. Kết quả đạt được không chỉ phản ánh bản lĩnh vượt khó và tinh thần đổi mới sáng tạo của cả hệ thống chính trị, mà còn cho thấy sự phát huy hiệu quả tiềm năng, lợi thế của địa phương, thể hiện trên một số thành tựu nổi bật trong nhiệm kỳ qua:
Về nông, lâm, thủy sản, tiếp tục giữ vai trò trụ đỡ của nền kinh tế, tập trung nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Ngành nông nghiệp được cơ cấu lại theo lợi thế vùng, gắn với an ninh lương thực và xuất khẩu. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ, phát triển nông nghiệp sạch, hữu cơ, công nghệ cao, an toàn thực phẩm, giảm phát thải và thích ứng với biến đổi khí hậu. Tăng cường liên kết chuỗi giá trị, xây dựng thương hiệu nông sản. Tỉnh tích cực triển khai Đề án 01 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030. Lâm nghiệp, duy trì thực hiện tốt công tác quản lý, khoanh nuôi, trồng và bảo vệ rừng, đặc biệt chú trọng phòng, chống cháy rừng và bảo vệ rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, nâng tỷ lệ che phủ rừng năm 2025, đạt 8,35%.
Ngành thủy sản tiếp tục cơ cấu lại theo hướng phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu, tổ chức lại ngành, nghề khai thác và nuôi trồng; cơ cấu đội tàu được điều chỉnh, nâng cao hiệu quả khai thác xa bờ; đồng thời, triển khai dự án nuôi trồng thủy sản biển theo định hướng bền vững, nhằm giảm khai thác, tăng diện tích nuôi trồng; ứng dụng các mô hình nuôi công nghệ cao, như nuôi lồng bè, nuôi biển. Tổng sản lượng thủy sản ước đạt 7.438.064 tấn(3), tốc độ tăng bình quân 5 năm, ước đạt 2,66%.
Về công nghiệp - xây dựng, đạt mức tăng trưởng khá, tiếp tục là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Cơ cấu ngành công nghiệp chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo; chú trọng phát triển các lĩnh vực có giá trị gia tăng cao, như chế biến nông - thủy sản, thực phẩm, giày da, may mặc và vật liệu xây dựng thân thiện môi trường. Giá trị sản xuất ngành công nghiệp giai đoạn 2021-2025, ước đạt 476.802,42 tỷ đồng(4), trong đó, công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục giữ vai trò chủ lực, chiếm khoảng 96% tổng giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp. Hạ tầng khu, cụm công nghiệp được quan tâm đầu tư đồng bộ, thu hút ngày càng nhiều dự án, tạo việc làm và tăng thu ngân sách địa phương(5). Một số khu công nghiệp và cụm công nghiệp đi vào hoạt động ổn định, góp phần hình thành chuỗi sản xuất - chế biến - xuất khẩu hiệu quả. Dự án đô thị ven biển được triển khai đồng bộ, từng bước mở rộng không gian phát triển, tạo diện mạo đô thị hiện đại và văn minh.
Về thương mại, dịch vụ và du lịch, tăng trưởng tích cực, tổng kim ngạch xuất khẩu, ước đạt 9.285,26 triệu USD(6); tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2021-2025, ước đạt 9,39%/năm. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, như gạo, thủy sản, hàng may mặc, giày da, nông sản chế biến tiếp tục giữ vững thị trường truyền thống và từng bước mở rộng sang thị trường tiềm năng. Hoạt động du lịch phục hồi nhanh và phát triển mạnh, đặc biệt ở các loại hình du lịch biển, du lịch sinh thái, văn hóa tâm linh và nghỉ dưỡng. Tổng lượt khách du lịch ước đạt trên 80,85 triệu lượt khách, trong đó khách quốc tế trên 3,48 triệu lượt, tốc độ tăng bình quân 14,93%/năm; doanh thu du lịch ước đạt 142.804 tỷ đồng, khẳng định vị thế của tỉnh trên bản đồ du lịch quốc gia và khu vực.
Kinh tế biển, kinh tế biên mậu được đẩy mạnh. Kinh tế biển có nhiều chuyển biến tích cực, nhất là trong lĩnh vực du lịch - dịch vụ biển, nuôi trồng thủy sản và vận tải biển; hạ tầng ven biển được đầu tư ngày càng đồng bộ, kết nối hiệu quả giữa đất liền với các đảo. Các sản phẩm chủ lực, như du lịch biển, nuôi biển công nghệ cao và xuất khẩu thủy sản tăng trưởng mạnh, đóng góp quan trọng vào cơ cấu kinh tế vùng ven biển(7). Kinh tế biên mậu được củng cố và mở rộng, với trọng tâm là đầu tư hạ tầng kỹ thuật cửa khẩu, thu hút dự án ngoài ngân sách, phát triển dịch vụ logistics, thương mại xuyên biên giới và kinh tế cư dân. Khu kinh tế cửa khẩu tỉnh An Giang được xác lập là một trong những cực tăng trưởng mới nằm trên hành lang kinh tế trọng điểm của vùng Đồng bằng sông Cửu Long, góp phần thúc đẩy liên kết vùng, mở rộng thị trường và bảo đảm quốc phòng - an ninh khu vực biên giới(8).
Nhằm tạo động lực cho phát triển kinh tế - xã hội, tỉnh tập trung huy động nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng giao thông, các đô thị động lực, hành lang liên kết vùng và khu vực còn dư địa và có tiềm năng phát triển. Bước đầu hình thành không gian phát triển tích hợp biển - biên - nội địa, với “Năm đô thị động lực” là Rạch Giá - Phú Quốc - Hà Tiên - Châu Đốc - Long Xuyên đóng vai trò đầu tàu thúc đẩy tăng trưởng ven biển và liên kết xuyên biên giới(9).
Trong tiến trình đổi mới, tỉnh An Giang luôn quán triệt và triển khai đồng bộ các nghị quyết trụ cột, chiến lược của Bộ Chính trị(10), xem đó là nền tảng định hướng cho phát triển. Tỉnh đã chủ động đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ, thúc đẩy chuyển đổi số trên mọi lĩnh vực, mở rộng hội nhập quốc tế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, chú trọng phát triển kinh tế tư nhân. Nhờ đó, không chỉ nâng cao năng lực cạnh tranh, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, mà còn tạo nền tảng vững chắc để tỉnh phát triển bền vững.
Văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, an sinh xã hội được quan tâm, cải thiện về chất lượng. Trật tự, an toàn xã hội được đảm bảo; quốc phòng, an ninh, chủ quyền biển, đảo, biên giới được giữ vững; đối ngoại được mở rộng. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị thường xuyên được quan tâm, nhất là thực hiện tốt chủ trương của Trung ương về sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy và đơn vị hành chính, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng cán bộ, đảng viên.
Bên cạnh kết quả đạt được, kinh tế - xã hội tỉnh An Giang vẫn chưa phát huy hết tiềm năng, chưa thật sự trở thành động lực phát triển của vùng. 1- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, chất lượng và tính bền vững chưa cao; nông, lâm, thủy sản tăng trưởng chậm, trong khi công nghiệp, du lịch và kinh tế biên mậu thiếu nguồn lực đầu tư; 2- Kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ, khoa học, công nghệ ứng dụng chưa hiệu quả, quản lý tài nguyên và môi trường có thời điểm chưa chặt chẽ; 3- Văn hóa - xã hội chưa được xác định đúng tầm; an ninh, trật tự ở nông thôn, biên giới, vùng biển còn tiềm ẩn phức tạp; 4- Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số tổ chức đảng chưa mạnh; một bộ phận cán bộ, đảng viên còn thiếu năng động, sáng tạo, sợ trách nhiệm... Những hạn chế nêu trên đặt ra yêu cầu cấp thiết cần phải có bước đi đột phá trong giai đoạn tới.
Hợp nhất địa giới hành chính - bước ngoặt lịch sử mở ra vận hội mới cho tỉnh An Giang
Ngày 12/4/2025, Nghị quyết số 60-NQ/TW, của Hội nghị Trung ương 11 khóa XIII được ban hành, nêu chủ trương, phương án sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh, không tổ chức cấp huyện, sáp nhập cấp xã và xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp, theo đó, tỉnh An Giang và tỉnh Kiên Giang được hợp nhất, đánh dấu bước ngoặt lịch sử trong cải cách bộ máy, thể hiện quyết tâm xây dựng nền quản trị tinh gọn, hiện đại, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả. Từ ngày 01/7/2025, tỉnh An Giang (mới) có diện tích gần 9.889 km², dân số gần 05 triệu người, trở thành địa phương có quy mô lớn nhất đồng bằng sông Cửu Long. Việc sáp nhập hai tỉnh mở ra nhiều cơ hội phát triển:
Hạ tầng giao thông được đồng bộ
Tỉnh An Giang có vị trí địa - chiến lược quan trọng; quản lý bờ biển dài 200 km; đường biên giới trên bộ hơn 148 km giáp giới với Campuchia, vừa nằm ở đầu nguồn sông Mê Kông và là cửa ngõ kết nối vùng Đồng bằng sông Cửu Long với thành phố Hồ Chí Minh, Phnôm Pênh (Campuchia) và Biển Đông; có đầy đủ các điều kiện để trở thành trung tâm giao thương, logistics, du lịch và dịch vụ quốc tế.
Để phát huy tiềm năng, nhiều dự án hạ tầng then chốt đang được triển khai, như cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng, đường Hồ Chí Minh đoạn Rạch Sỏi - Bến Nhất, tuyến cao tốc Hà Tiên - Rạch Giá - Bạc Liêu và các tuyến ven biển, từng bước tạo đột phá cho liên kết vùng. Riêng đặc khu Phú Quốc - khu vực biển, đảo với hạ tầng hàng không, cảng biển hiện đại và hệ sinh thái du lịch, nghỉ dưỡng đẳng cấp, đang trở thành cực tăng trưởng mới, mở rộng cánh cửa hội nhập quốc tế cho tỉnh. Cùng với phát triển hạ tầng hiện đại, tỉnh còn đẩy mạnh cải cách thể chế, tháo gỡ điểm nghẽn, nâng cao trách nhiệm đội ngũ cán bộ, qua đó xây dựng môi trường đầu tư thông thoáng, trở thành “đòn bẩy chiến lược” để tỉnh An Giang bứt phá, khẳng định vai trò trung tâm phát triển mới của vùng Tây Nam Bộ.
Hội tụ tiềm năng, bứt phá phát triển kinh tế xanh
Sự hội tụ tiềm năng kinh tế giữa đồng bằng, biên giới và biển, đảo đã mở ra không gian phát triển rộng lớn, hình thành nền kinh tế tổng hợp đa ngành, đa lĩnh vực, vừa khai thác hiệu quả thế mạnh nông nghiệp, thủy sản nước ngọt, vừa phát huy tối đa tiềm năng kinh tế biển, kinh tế biên mậu. Toàn vùng Tứ giác Long Xuyên có điều kiện bứt phá với sản xuất nông nghiệp hữu cơ, ứng dụng công nghệ cao, phát triển công nghiệp chế biến, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng gia tăng giá trị, nâng cao năng lực cạnh tranh khu vực và quốc tế.
Kinh tế biển và kinh tế biên mậu trở thành động lực then chốt, giữ vai trò kết nối phát triển kinh tế xanh với tiến trình hội nhập quốc tế sâu rộng. Các lĩnh vực trọng điểm, như nuôi trồng thủy sản sinh thái, khai thác bền vững, điện gió, điện mặt trời, thương mại biên giới và dịch vụ logistics xuyên biên giới sẽ mở ra không gian phát triển mới, gia tăng sức mạnh liên kết vùng và củng cố vị thế chiến lược của tỉnh An Giang.
Văn hóa đa dạng - động lực mềm cho phát triển bền vững
Tỉnh không chỉ mở rộng không gian phát triển kinh tế - xã hội, mà còn khơi dậy sức mạnh văn hóa “nguồn lực mềm” cho phát triển bền vững. Vùng đất này hội tụ kho tàng di sản phong phú, như lễ hội vía Bà Chúa Xứ Núi Sam, Đua bò Bảy Núi, văn hóa Óc Eo - Ba Thê, nghệ thuật kiến trúc đình, chùa, nhà sàn, làng nghề truyền thống và các loại hình diễn xướng dân gian đặc sắc. Những giá trị ấy vừa góp phần củng cố bản sắc, vừa là nền tảng để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa hiện đại, từ điện ảnh, âm nhạc, thời trang, mỹ thuật ứng dụng đến du lịch văn hóa - sinh thái - tâm linh.
Hoàn thiện bộ máy - nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước
Việc sắp xếp lại đơn vị hành chính đã khẳng định quyết tâm chính trị to lớn trong xây dựng một nền quản trị hiện đại, hiệu năng, hiệu lực và hiệu quả. Bộ máy chính quyền địa phương được kiện toàn theo mô hình tinh gọn, hai cấp, với 102 đơn vị hành chính (85 xã, 14 phường, 03 đặc khu), tạo điều kiện thuận lợi cho quản lý thống nhất và phát triển toàn diện. Hội đồng nhân dân các cấp ngày càng thể hiện rõ vai trò cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, kịp thời cụ thể hóa nghị quyết của Đảng, ban hành nhiều cơ chế, chính sách quan trọng, đồng thời nâng cao chất lượng hoạt động giám sát.
Trên nền tảng bộ máy chính quyền tinh gọn và hiệu quả, Ủy ban nhân dân đã chuyển mạnh sang vai trò kiến tạo, đồng hành cùng doanh nghiệp, thực hiện cải cách hành chính với chuyển đổi số, tiến tới mọi thủ tục đều được giải quyết trên môi trường điện tử và kết nối với Cổng dịch vụ công quốc gia. Công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo được quan tâm, phần lớn các vụ việc phức tạp, tồn đọng kéo dài đã được xử lý căn cơ, tạo niềm tin trong nhân dân. Đây chính là bước đột phá trong hiện thực hóa phương châm “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”.
Giải pháp trọng tâm cho nhiệm kỳ mới
Kết quả trong nhiệm kỳ 2020 - 2025, phản ánh nỗ lực và quyết tâm của toàn thể Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh An Giang, Kiên Giang. Hướng tới năm 2030, An Giang phấn đấu trở thành tỉnh phát triển khá của cả nước, là trung tâm kinh tế biển mạnh của quốc gia. Để đạt được mục tiêu này, tỉnh tập trung triển khai đồng bộ các giải pháp trọng tâm:
Một là, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp - xây dựng, dịch vụ; phát triển nông nghiệp công nghệ cao, quy mô lớn theo chuỗi giá trị. Đẩy mạnh kinh tế biên mậu, xây dựng khu kinh tế cửa khẩu tỉnh An Giang thành trung tâm giao thương tiểu vùng Mê Kông; khai thác hiệu quả tiềm năng kinh tế biển, phát triển đặc khu Phú Quốc và vùng ven biển thành động lực tăng trưởng mới; hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, hội nhập sâu chuỗi giá trị toàn cầu. Hoàn thiện cơ chế, chính sách, môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, hấp dẫn; thu hút nguồn lực trong và ngoài nước.
Hai là, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, xác định đây là động lực then chốt cho tăng trưởng bền vững; ưu tiên ứng dụng trong nông nghiệp, công nghiệp chế biến, kinh tế biển, du lịch, thương mại - dịch vụ. Hoàn thiện cơ chế, huy động nguồn lực đầu tư hạ tầng công nghệ, trung tâm nghiên cứu, khởi nghiệp sáng tạo. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, thu hút, trọng dụng nhân tài; mở rộng hợp tác quốc tế, tiếp nhận công nghệ tiên tiến từ các nước phát triển. Qua đó, nâng cao năng suất, sức cạnh tranh, bảo đảm quốc phòng - an ninh, từng bước đưa An Giang trở thành trung tâm khoa học - công nghệ ứng dụng của vùng Tây Nam Bộ.
Ba là, phát huy giá trị văn hóa, truyền thống và con người An Giang gắn với phát triển kinh tế - xã hội và du lịch; bảo tồn, khai thác hiệu quả di sản, lễ hội, di tích lịch sử; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, nếp sống văn minh. Xây dựng con người An Giang toàn diện, đội ngũ nông dân chuyên nghiệp, công nhân lành nghề, doanh nhân, trí thức, cán bộ, công chức bản lĩnh, sáng tạo, trách nhiệm. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao; xây dựng “thế hệ trẻ An Giang số”. Phát triển y tế hiện đại, nâng cao chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh; thực hiện tốt an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững, không để ai bị bỏ lại phía sau. Tăng cường đào tạo nghề, giải quyết việc làm, phát triển thị trường lao động hiện đại, mở rộng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, qua đó củng cố nền tảng văn hóa - xã hội vững chắc cho phát triển bền vững.
Bốn là, củng cố nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo và biên giới; xây dựng lực lượng vũ trang tỉnh chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Đầu tư trang bị kỹ thuật, chăm lo hậu phương, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, an ninh mạng và phòng, chống tội phạm. Đồng thời, quảng bá tiềm năng, mở rộng hợp tác với các nước và tổ chức quốc tế. Nâng cao hiệu quả đối ngoại đảng, ngoại giao chính quyền và đối ngoại nhân dân; thực hiện tốt bảo hộ công dân, tạo môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác để An Giang phát triển nhanh và bền vững.
Năm là, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ ở cơ sở, tăng cường đối thoại, khơi dậy khát vọng phát triển; phát huy vai trò Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, trí thức và kiều bào trong xây dựng quê hương. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu; kiên quyết phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, xây dựng văn hóa liêm chính, siết chặt kỷ luật và kỷ cương. Đổi mới công tác dân vận theo phương châm: “Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, vì dân”; đẩy mạnh cải cách hành chính, chuyển đổi số, xây dựng chính quyền tinh gọn, hiện đại, minh bạch, phục vụ nhân dân.
Với quyết tâm chính trị và động lực, lợi thế mới, không gian phát triển mới, phát huy sức sáng tạo, sức mạnh đại đoàn kết, với tinh thần “Một An Giang - Một tầm nhìn - Một ý chí - Một niềm tin thắng lợi”, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh An Giang sẽ đồng lòng, chung sức, quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu đề ra, đưa tỉnh An Giang phát triển bền vững, cùng cả nước bước vào kỷ nguyên mới.
Nguyễn Tiến Hải
Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy An Giang
----------
(1) Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, tăng 2,52%; khu vực công nghiệp và xây dựng, tăng 8,76% (công nghiệp, tăng 9,9%); khu vực dịch vụ, tăng 7,42%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm, tăng 3,58%.
(2) Cơ cấu kinh tế theo giá hiện hành, tỷ trọng khu vực nông - lâm thủy sản năm 2020 từ 37,47% giảm còn 35,21%; khu vực công nghiệp - xây dựng năm 2020 từ 16,81% tăng lên 18,77% (Trong đó, công nghiệp từ 10,59% tăng lên 12,39%); khu vực dịch vụ năm 2020 từ 40,99% tăng lên 41,76% năm 2025.
(3) Trong đó, sản lượng khai thác, ước đạt 2.417.761 tấn; sản lượng nuôi trồng, ước đạt 1.333.403 tấn.
(4) Trong đó, giá trị sản xuất công nghiệp năm 2020, đạt từ 73.456,511 lên 118.002,7 tỷ đồng năm 2025.
(5) Giai đoạn 2021-2025, toàn tỉnh có 11 khu công nghiệp, với quy mô 1.711,47 ha, trong đó có 6 khu công nghiệp đã và đang đầu tư hạ tầng, với quy mô 699,07 ha; đã cấp mới giấy chứng nhận đăng ký đầu tư 07 dự án với tổng vốn đăng ký đầu tư 1.175,45 tỷ đồng và 01 dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng khu công nghiệp Vàm Cống, với vốn đăng ký đầu tư 2.457,92 tỷ đồng.
(6) Trong đó, kim ngạch xuất khẩu năm 2025, ước đạt 2.204,399 triệu USD, tăng 56,66% so năm 2020.
(7) Du lịch và dịch vụ biển phát triển mạnh, khách du lịch tăng bình quân khoảng 14%/năm, doanh thu tăng 30-50%/năm. Hoạt động nuôi biển mở rộng với 06 dự án quy mô lớn, với tổng diện tích 3.287,8 ha và tổng vốn đăng ký đầu tư 1.120 tỷ đồng, xuất khẩu thủy sản tăng 9,39%/năm. Có gần 40 phương tiện chở khách và trên 150 phương tiện chở hàng hóa ra đảo, lượng hành khách tăng trên 08%/năm.
(8) Tỉnh đã đầu tư 07 dự án từ nguồn vốn ngân sách nhà nước với tổng vốn là 347.630 triệu đồng, thu hút 21 dự án đầu tư ngoài ngân sách (trong đó có 01 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)) với tổng số vốn đăng ký là 1.224 tỷ đồng; trong đó có 18 dự án đi vào hoạt động, đóng góp ngân sách 2.642 tỷ đồng. Khu kinh tế cửa khẩu của tỉnh là 01 trong 04 hành lang kinh tế quan trọng của vùng đồng bằng sông Cửu Long theo quy hoạch vùng được phê duyệt.
(9) Trên cơ sở quy hoạch được phê duyệt, tỉnh tập trung nguồn lực đầu tư 95 dự án kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ, hiện đại, kết nối vùng với tổng vốn khoảng 38.151 tỷ đồng, chiếm 52,43% trên tổng vốn đầu tư công toàn tỉnh.
(10) Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024, của Bộ Chính trị, “về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”; Nghị quyết 59-NQ/TW, ngày 24/01/2025, của Bộ Chính trị, “về Hội nhập quốc tế trong tình hình mới; Nghị quyết số 66-NQ/TW, ngày 30/4/2025, “về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới”; Nghị quyết số 68-NQ/TW, ngày 04/5/2025, của Bộ Chính trị, “về phát triển kinh tế tư nhân”; Nghị quyết số 70-NQ/TW, ngày 20/8/2025, của Bộ Chính trị, “về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 70-NQ/TW”; Nghị quyết số 71-NQ/TW, ngày 22/8/2025, của Bộ Chính trị, “về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo và Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 71-NQ/TW”; Nghị quyết số 72-NQ/TW, ngày 08/9/2025, của Bộ Chính trị, “về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân và Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 72-NQ/TW”…